Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời

Những tưởng quy định lỗi thời của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 (Pháp lệnh HĐKT) và Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995 rằng, giao dịch do một pháp nhân giao kết khi pháp nhân này không (hoặc chưa) có đăng ký kinh doanh (ĐKKD) trong lĩnh vực cụ thể nào đó sẽ bị vô hiệu, đã được loại bỏ bởi việc ban hành BLDS năm 2005. Nhưng, với số lượng ngày càng tăng các bản án tuyên vô hiệu hợp đồng do doanh nghiệp không ĐKKD trong thời gian gần đây, (thời điểm gần nhất mà chúng tôi được biết là Bản án số 2354/2009/DSPT ngày 10/12/2009 của TAND TP. Hồ Chí Minh1), thì đây là sự trở lại đáng lo ngại của hiện tượng tuyên vô hiệu hợp đồng do pháp nhân không có ĐKKD. Bài viết, vì vậy, sẽ tập trung phân tích nguồn gốc học thuyết yêu cầu pháp nhân phải kinh doanh trong phạm vi ĐKKD trên thế giới, lược sử áp dụng quy định tại Việt Nam và những khuyến nghị cho Tòa án và cơ quan lập pháp Việt Nam về vấn đề này

Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời trang 1

Trang 1

Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời trang 2

Trang 2

Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời trang 3

Trang 3

Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời trang 4

Trang 4

Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 3520
Bạn đang xem tài liệu "Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời

Sự trở lại đáng lo ngại của một học thuyết lỗi thời
ỨU LẬP PHÁPI 51
 2010
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
được đăng ký với cơ quan đăng ký công ty)4. ty7, các cổ đông phải có điều khoản về phạm 
 Về lịch sử, học thuyết ultra vires được áp vi hoạt động của công ty, trong đó liệt kê các 
dụng đầu tiên tại Anh đối với công ty thành lập lĩnh vực kinh doanh của công ty8,9. Bằng cách 
theo các đạo luật của Nghị viện. Các công ty này, một chủ nợ hoặc một cổ đông tương lai 
này được thành lập nhằm phục vụ cho các nhu có thể tham chiếu đến điều khoản về phạm vi 
cầu thiết yếu của xã hội như giao thông vận tải, hoạt động của công ty tại thỏa thuận thành lập/
điện lực hay khai thác than Trong các đạo điều lệ công ty để biết phạm vi hoạt động của 
luật thành lập công ty có các quy định hạn chế công ty và quyết định có cho nợ hoặc đầu tư 
phạm vi hoạt động của công ty. Việc vi phạm vào công ty hay không. Nếu công ty có hành 
các quy định hạn chế này được coi là hành vi vi vượt quá phạm vi hoạt động đã quy định thì 
ultra vires và giao dịch vì vậy sẽ vô hiệu5. chủ nợ hoặc cổ đông có quyền yêu cầu tòa án 
 Tuy nhiên, học thuyết chỉ bắt đầu được ra lệnh cho công ty chấm dứt hành vi vượt quá 
áp dụng phổ biến sau sự ban hành Đạo luật thẩm quyền hoặc yêu cầu giải thể công ty. Đối 
về Công ty cổ phần năm 1856 (Joint Stock với giao dịch vượt quá thẩm quyền đã giao kết 
Company Act 1856). Trước thời điểm ban với bên thứ ba, cổ đông hoặc chủ nợ có quyền 
hành đạo luật này, một công ty cổ phần tại Anh yêu cầu tòa án tuyên vô hiệu giao dịch với bên 
có tư cách và trách nhiệm giống như một công thứ ba. Từ thời điểm ban hành Đạo luật về 
ty hợp danh. Đạo luật về Công ty cổ phần 1856 Công ty cổ phần 1856 và qua án lệ vụ Ashbury 
được ban hành nhằm mục đích sửa đổi bản Carriage Company v. Riche10, học thuyết ultra 
chất hợp danh của công ty cổ phần. Đặc tính vires đã được áp dụng rộng khắp nước Anh11. 
vô hạn của thành viên hợp danh được chuyển Tuy nhiên, ngay từ khi áp dụng học thuyết 
thành đặc tính trách nhiệm hữu hạn của một cổ ultra vires, các bên liên quan đã thấy những 
đông công ty, sao cho phù hợp với tinh thần nhược điểm của học thuyết này khi nó hạn chế 
của Đạo luật về Trách nhiệm hữu hạn 1855 quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. 
(Limited Liability Act 1855). Tuy nhiên, khi Những người điều hành doanh nghiệp một mặt 
ban hành Đạo luật về Công ty cổ phần năm luôn phải xác định xem hành vi của mình đang 
1856, các nhà lập pháp có suy nghĩ rằng, một thực hiện nhân danh doanh nghiệp có nằm 
khi cho phép trách nhiệm của cổ đông là hữu trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp hay 
hạn thì chủ nợ của công ty sẽ không được đảm không. Nếu không, dù đó là cơ hội kinh doanh 
bảo. Bởi vì, cổ đông trong công ty có thể lạm có lợi nhuận cao cũng không được quyền giao 
dụng địa vị trách nhiệm hữu hạn để trốn tránh dịch. Tất nhiên, các cổ đông có thể sửa đổi thỏa 
trách nhiệm cá nhân của mình6. Vì lẽ đó, để thuận thành lập và điều lệ tương ứng nhưng 
bảo vệ chủ nợ và cổ đông tương lai, Đạo luật quy trình sửa đổi thì lâu mà cơ hội kinh doanh 
về Công ty cổ phần 1856 có một điều khoản có thể đã bị mất. Đối với các bên giao dịch với 
quy định rằng trong thỏa thuận thành lập công doanh nghiệp, trước khi giao dịch cũng phải 
(4) Trong một số trường hợp khác, ultra vires là hành vi vượt quá thẩm quyền của một cơ quan chức năng của công ty như giám đốc, 
 hội đồng quản trị... Tuy nhiên, do mang bản chất khác, vấn đề không được đề cập tại đây.
(5) Xem Stephen Griffin trong “The Rise and Fall of the Ultra Vires Rule in Corporate Law”, Mountbatten Journal of Legal Studies, số 2, 1998.
(6) Xem Stephen. tlđd.
(7) Theo luật công ty các nước theo hệ thống thông luật, văn kiện thành lập công ty bao gồm điều lệ và thỏa thuận thành lập công ty.
(8) Điều khoản về hoạt động của công ty cũng được nêu tại điều lệ của công ty.
(9) Một lý do kém quan trọng hơn là để tránh hiện tượng “buôn bán đăng ký công ty”.
(10) Xem vụ Ashbury Carriage Company v. Riche, L.R. 7 H.L. 653 (1875). Trong vụ kiện này, nguyên đơn chỉ ĐKKD là sản xuất và bán toa 
 xe lửa nhưng đã ký hợp đồng đồng ý cấp vốn cho việc xây dựng hệ thống xe lửa tại Bỉ. Sau đó, công ty không thực hiện việc cấp 
 vốn và bị kiện. Công ty viện lý cho việc vi phạm hợp đồng là hành vi cấp vốn vượt quá phạm vi hoạt động kinh doanh của công 
 ty. Vụ kiện được đưa đến Tòa án tối cao (the House of Lords) và tòa này đã phán quyết rằng hành vi cấp vốn là hành vi ultra vires, 
 vượt quá thẩm quyền của công ty và vì vậy, vô hiệu tuyệt đối (void ab initio).
(11) Xem Davies, sđd, tr. 203.
 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 13(174) 7
52 2010
 THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
tìm hiểu xem doanh nghiệp có thẩm quyền lệ phạm vi hoạt động, kinh doanh của mình 
giao kết trong một lĩnh vực nào đó không. Tuy nhưng quy định này sẽ không có hiệu lực khi 
nhiên, quan trọng hơn là một bên ác ý luôn có công ty thực hiện giao dịch với bên thứ ba (dù 
thể lạm dụng học thuyết để yêu cầu vô hiệu hợp bên thứ ba là ngay tình hay thậm chí ác ý)15. 
đồng, khiến học thuyết trở thành một cái bẫy Nói cách khác, giao dịch với bên thứ ba vẫn có 
cho những hiệu lực dù 
bên ngay giao dịch 
tình12. Chính này vượt 
bản thân tòa Qua thời gian, nội hàm của học thuyết ultra vires quá lĩnh vực 
án cũng nhận đã được thay đổi ngay tại nước nguyên xứ của học ngành, nghề 
thấy sự bất thuyết. Theo đó, học thuyết không có giá trị ràng kinh doanh 
hợp lý của buộc đối với bên thứ ba... Tuy nhiên, học thuyết lại của công ty. 
quy định mà có giá trị ràng buộc trong nội bộ công ty. Cơ quan T u y 
những án điều hành của công ty khi giao kết hợp đồng phải nhiên, mặc 
lệ sau đó, dù thừa nhận 
tòa án bằng chịu trách nhiệm trực tiếp với cổ đông hay chủ nợ tính có hiệu 
cách này hay cho những giao dịch vượt quá phạm vi hoạt động lực của giao 
cách khác kinh doanh nêu tại văn kiện thành lập công ty. dịch với bên 
giảm thiểu đi thứ ba, các 
tính hà khắc nhà lập pháp 
của học thuyết ultra vires mà chính tòa đã áp Anh vẫn cho phép học thuyết có giá trị ràng 
dụng13. buộc trong nội bộ công ty. Giả sử các cổ đông 
 Vì những lẽ này mà Anh quốc đã thực hiện trong Thỏa thuận thành lập vẫn quy định về 
một loạt những sửa đổi trong luật công ty của phạm vi hoạt động của công ty mà người đại 
mình để loại bỏ ảnh hưởng bất lợi của học diện cho công ty lại hành động vượt quá phạm 
thuyết. Những sửa đổi lớn đối với học thuyết vi này, gây thiệt hại cho công ty hay chủ nợ thì 
được thực hiện tại Đạo luật về Công ty 1948 người đại diện sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp 
(Companies Act 1948), Đạo luật về Công ty với cổ đông hoặc chủ nợ công ty. Cổ đông hay 
1985 (Companies Act 1985) và Đạo luật về chủ nợ khác có quyền kiện đòi người đại diện 
Công ty 1989 (Companies Act 1989). Trong công ty cho hành vi ultra vires được thực hiện 
đó, những sửa đổi tại Đạo luật về Công ty 1989 bởi người này.
được coi là triệt để nhất. Như vậy, có thể thấy qua thời gian, nội 
 Khoản 1 Điều 35, Đạo luật về Công ty 1989 hàm của học thuyết ultra vires đã được thay 
quy định: “Tính có hiệu lực của một hành vi đổi ngay tại nước nguyên xứ của học thuyết. 
của công ty không bị ảnh hưởng bởi lý do rằng Theo đó, học thuyết không có giá trị ràng buộc 
công ty không có thẩm quyền thực hiện hành đối với bên thứ ba. Hợp đồng, giao dịch với 
vi đó như được quy định tại thỏa thuận thành bên thứ ba vượt quá phạm vi hoạt động kinh 
lập công ty”14. doanh vẫn có hiệu lực. Tuy nhiên, học thuyết 
 Theo quy định trên, dù công ty có hay lại có giá trị ràng buộc trong nội bộ công ty. 
không quy định tại Thỏa thuận thành lập/Điều Cơ quan điều hành của công ty khi giao kết 
(12) Xem Davies, sđd, tr. 204.
(13) Có thể xem, ví dụ vụ A-G v Great Eastern Rly Co, 5 App Cas 473, HL (1880). Theo đó, Tòa án tối cao phán quyết rằng, ngoài những 
 lĩnh vực kinh doanh đã được liệt kê cụ thể tại thỏa thuận thành lập thì những lĩnh vực bổ trợ hoặc liên quan đến lĩnh vực chính 
 này cũng được xem là lĩnh vực kinh doanh trong thẩm quyền của công ty.
(14) Điều 35 và 35(A) của Đạo luật về Công ty 1989 đã trở thành Điều 39 và 40 của Đạo luật về Công ty 2006 hiện hành. 
(15) Tức là biết hoặc không biết công ty đang có giao dịch vượt quá thẩm quyền.
 7 Số 13(174) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 53
 2010
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
hợp đồng phải chịu trách nhiệm trực tiếp với làm luật Việt Nam. Trong một bài nghiên cứu 
cổ đông hay chủ nợ cho những giao dịch vượt về học thuyết ultra vires tại các nước theo hệ 
quá phạm vi hoạt động kinh doanh nêu tại văn thống kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN), hai 
kiện thành lập công ty. nhà nghiên cứu người Trung Quốc đã chứng 
 minh rằng, việc quy định doanh nghiệp phải 
2. Lược sử áp dụng học thuyết tại Việt Nam hoạt động trong phạm vi ĐKKD có nguồn 
và một số khuyến nghị gốc là nhằm để bảo đảm rằng các doanh 
 Ở Việt Nam, dường như yêu cầu về nghiệp nhà nước hoạt động theo đúng các 
doanh nghiệp phải hoạt động trong phạm vi chỉ tiêu, kế hoạch kinh tế của Nhà nước tại 
ĐKKD16 được đề cập đầu tiên tại Pháp lệnh các nước theo mô hình kinh tế tập trung 
HĐKT. Điểm b, Khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh XHCN trước đây17. Nhà nước giao vốn cho 
này quy định các doanh 
hợp đồng nghiệp 
sẽ vô hiệu Việc áp dụng trở lại học thuyết ultra vires tại (Nhà nước) 
toàn bộ nếu Việt Nam lại một lần nữa mang đến tính không thể và yêu cầu 
“một trong lường trước của giao dịch và những phán quyết bất các doanh 
các bên nghiệp này 
ký kết hợp hợp lý sau đó. Cái bẫy cho bên ngay tình lại được phải hoạt 
đồng kinh chăng ra và lạm dụng bởi các bên ác ý động trong 
tế không có phạm vi lĩnh 
ĐKKD theo vực, ngành 
quy định của pháp luật để thực hiện công nghề mà mình cho phép thành lập.
việc đã thoả thuận trong hợp đồng”. Kể từ thời điểm Việt Nam ban hành Pháp 
 Tiếp theo, Điều 96 BLDS năm 1995 lệnh HĐKT và BLDS năm 1995, quy định 
cũng khẳng định một pháp nhân “phải hoạt yêu cầu doanh nghiệp phải hoạt động trong 
động đúng mục đích [được thành lập]”. Đây phạm vi ĐKKD cũng đã tạo ra nhiều phiền 
là một quy định bắt buộc, việc vi phạm sẽ toái cho doanh nghiệp làm ăn đứng đắn. Bên 
mang đến hậu quả, trong phạm vi giao dịch không ngay tình luôn viện đến quy định này 
dân sự/kinh tế, là hợp đồng vô hiệu. để trốn tránh trách nhiệm của mình18. Tòa án 
 Điều 8 Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng đã tuyên bố vô hiệu rất nhiều hợp đồng chỉ 
quy định doanh nghiệp có nghĩa vụ “hoạt vì doanh nghiệp vi phạm quy định này. Nhận 
động kinh doanh theo đúng các ngành, nghề thức được sự vô lý của quy định, trong phạm 
đã đăng ký”. Luật này còn đề cập hậu quả vi thẩm quyền của mình, Tòa án nhân dân tối 
hành chính đối với hành vi vi phạm, còn hậu cao trong Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP 
quả về mặt pháp luật dân sự (giao dịch có vô đã nới lỏng tính hà khắc của quy định bằng 
hiệu hay không), luật không đề cập tới. việc cho phép bên không ĐKKD nếu đã bổ 
 Các nhà làm luật không giải thích vì sao sung ĐKKD trước khi xảy ra tranh chấp (sau 
họ đặt ra các yêu cầu trên. Vì vậy, thật khó khi hợp đồng được giao kết) thì hợp đồng 
mà xác định được ý chí đích thực của nhà vẫn có hiệu lực19.
(16) Lưu ý rằng về hình thức áp dụng học thuyết ultra vires tại Việt Nam có khác một chút. Đó là pháp luật yêu cầu doanh nghiệp phải 
 hoạt động trong phạm vi ĐKKD, còn tại Anh quốc là hoạt động trong phạm vi điều khoản về phạm vi hoạt động trong thỏa thuận 
 thành lập và điều lệ. Tuy nhiên, sự khác biệt này chỉ là hình thức. Về bản chất đều là doanh nghiệp phải hoạt động trong phạm vi 
 điều lệ/thỏa thuận thành lập đã được đăng ký với cơ quan đăng ký công ty.
(17) Xem Zhong Jianhua và Yu Guanghua trong “China’s Uniform Contract Law: Progress and Problems” tại Tạp chí UCLA Pacific Basin 
 Law Journal, 1999, tr. 18 (giải thích chức năng của học thuyết ultra vires trong các nền kinh tế XHCN).
(18) Bởi hậu quả vô hiệu hợp đồng, các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận khiến một bên không phải thanh toán thù lao, tiền 
 lãi hoặc sử dụng tài sản một thời gian rồi lại có thể trả cho bên bán v.v...
(19) Điểm 1(a) Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP của TANDTC ngày 27/05/2003.
 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 13(174) 7
54 2010
 THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
 Một điểm cần 
 lưu ý là trong các 
 ngành, nghề kinh 
 doanh luôn có 
 ngành, nghề kinh 
 doanh có điều kiện. 
 Tức là pháp luật 
 quy định doanh 
 nghiệp chỉ có thể 
 kinh doanh khi có 
 chứng chỉ hành 
 nghề hoặc điều kiện 
 vốn hoặc điều kiện 
 khác về cơ sở vật 
 chất, con người 
 Giao dịch có vô hiệu khi một công ty chưa thỏa mãn Chỉ khi thỏa mãn 
 điều kiện kinh doanh “bắt tay” với bên thứ ba - Ảnh: S.T
 những điều kiện 
 pháp luật quy định, 
 Việc ban hành BLDS năm 2005 và Luật doanh nghiệp mới được quyền kinh doanh 
Thương mại năm 2005 đã thay thế BLDS trong lĩnh vực này. Nó khác với các ngành 
năm 1995 và Pháp lệnh HĐKT. Hậu quả vô kinh doanh thông thường, nơi doanh nghiệp 
hiệu tại các văn bản trên đã được gỡ bỏ. Tuy chỉ cần thực hiện việc đăng ký và sẽ đương 
nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2005 lại vẫn nhiên được kinh doanh trong lĩnh vực đó. 
giữ nguyên điều khoản yêu cầu doanh nghiệp Vậy, giả sử nếu một công ty chưa thỏa mãn 
có nghĩa vụ hoạt động trong phạm vi ĐKKD điều kiện kinh doanh do pháp luật yêu cầu, 
tại Khoản 1 Điều 9. Đây là tiền đề cho sự trở ví dụ chưa có chứng chỉ hành nghề, giấy 
lại của hậu quả hợp đồng vô hiệu do doanh phép kinh doanh hay vốn pháp định, nhưng 
nghiệp vi phạm phạm vi ĐKKD mà vụ án lại giao dịch với một bên thứ ba thì giao 
nói tại phần đầu bài viết là một ví dụ. dịch có vô hiệu hay không? Về vấn đề này, 
 Việc áp dụng trở lại học thuyết ultra vires nguyên tắc chung là thẩm phán sẽ phải xác 
tại Việt Nam lại một lần nữa mang đến tính định xem yêu cầu về điều kiện kinh doanh là 
không thể lường trước của giao dịch và quy định cấm (quy định bắt buộc) của pháp 
những phán quyết bất hợp lý sau đó. Cái bẫy luật hay chỉ là quy định mang tính quản lý 
cho bên ngay tình lại được chăng ra và lạm hành chính. Nếu quy định về điều kiện kinh 
dụng bởi các bên ác ý. doanh là quy định cấm (bắt buộc) của pháp 
 Để tạo môi trường kinh doanh ổn định, luật - yêu cầu được đặt ra để bảo vệ lợi ích 
lành mạnh, bảo vệ bên ngay tình, các nhà làm công cộng (ví dụ sức khỏe cộng đồng, an 
luật Việt Nam cần phải quy định triệt để về ninh quốc gia), bên liên quan nhất thiết 
hậu quả dân sự của yêu cầu kinh doanh trong phải thỏa mãn điều kiện kinh doanh mới 
phạm vi ĐKKD. Giao dịch vượt quá phạm vi được giao dịch, thì hậu quả giao dịch sẽ vô 
ĐKKD có vô hiệu hay không? Trường hợp hiệu tuyệt đối. Nếu là quy định mang tính 
nào thì vô hiệu và vì sao? quản lý - yêu cầu mang tính quản lý hành 
 Để trả lời những câu hỏi này, giải pháp chính nhà nước mà không phải để bảo vệ lợi 
của Anh quốc, nơi nguyên xứ của học thuyết ích công cộng, thì giao dịch không nhất thiết 
ultra vires, là đáng để cho nhà làm luật và bị vô hiệu mà hậu quả chỉ là phạt vi phạm 
các Tòa án Việt Nam quan tâm, tham khảo. hành chính đối với các bên vi phạm.
 7 Số 13(174) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 55
 2010

File đính kèm:

  • pdfsu_tro_lai_dang_lo_ngai_cua_mot_hoc_thuyet_loi_thoi.pdf