Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội

1. Trong lịch sử có nhiều quan niệm

về công bằng xã hội (CBXH) được bàn

đến dưới nhiều dạng khác nhau và

nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chỉ

đến chủ nghĩa Marx, quan niệm về

CBXH mới thực sự là cơ sở lý luận trong

việc xác định mục tiêu giải phóng con

người thoát khỏi chế độ xã hội áp bức và

bất công. Đặc biệt, trên cơ sở chỉ ra thực

chất của cái gọi là CBXH trong CNTB,

các nhà kinh điển mácxít đã làm rõ về

sự khác biệt căn bản giữa công bằng

trong CNTB và CBXH trong chủ nghĩa

cộng sản tương lai.

 

Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội trang 1

Trang 1

Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội trang 2

Trang 2

Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội trang 3

Trang 3

Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội trang 4

Trang 4

Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội trang 5

Trang 5

Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội trang 6

Trang 6

Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 3440
Bạn đang xem tài liệu "Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội

Sự phê phán của Marx và Engels về thực chất của công bằng xã hội
ó điều kiện để chờ đợi và sống bằng t− 
bản của y. Ng−ời công nhân không thể 
làm nh− thế đ−ợc (...). Ng−ời công nhân 
ngay từ đầu đã ở vào những điều kiện 
bất lợi trong cuộc đấu tranh. Cái đói đặt 
anh ta vào một hoàn cảnh hết sức bất 
lợi. Thế mà, theo khoa kinh tế chính trị 
của giai cấp các nhà t− bản, đó là đỉnh 
cao của sự công bằng” (C. Mác và Ph. 
Ăngghen, 1995, Tập 19, tr.367). Vì vậy, 
theo quan điểm của K. Marx và F. 
Engels, muốn có CBXH thực sự thì phải 
thực hiện đ−ợc nguyên tắc phân phối 
theo lao động, nh−ng phải phân phối 
đúng với giá trị của sức lao động. 
Bên cạnh việc phê phán quan điểm 
thực hiện CBXH theo nguyên tắc “trao 
đổi ngang giá” của các nhà kinh tế t− 
sản, F. Engels còn phê phán cả sự áp 
dụng thuyết Ricardo theo kiểu bình 
quân (nghĩa là theo kiểu XHCN). 
Theo thuyết giá trị của David 
Ricardo: “1) Giá trị của mọi hàng hoá 
đều đ−ợc quy định một cách duy nhất và 
tuyệt đối bởi số l−ợng lao động cần thiết 
cho việc sản xuất ra hàng hóa đó, và 2) 
sản phẩm của toàn bộ lao động xã hội 
đ−ợc chia cho ba giai cấp: địa chủ (địa 
tô), t− bản (lợi nhuận) và công nhân 
(tiền công)” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 
1995, Tập 21, tr.269). Từ hai luận điểm 
đó, ngay từ năm 1821, ở Anh ng−ời ta 
đã rút ra những kết luận XHCN. F. 
Engels viết: “Ng−ời nào hiểu biết ít 
nhiều sự phát triển của kinh tế chính 
trị học ở n−ớc Anh, ng−ời đó không thể 
không biết rằng, vào những thời kỳ 
khác nhau, hầu hết những ng−ời theo 
chủ nghĩa xã hội n−ớc này đều đề nghị 
áp dụng theo kiểu bình quân (nghĩa là 
theo kiểu xã hội chủ nghĩa) thuyết 
Ricácđô” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 1995, 
Tập 21, tr.269). 
Trong Lời tựa viết cho tác phẩm “Sự 
khốn cùng của triết học”, để phê phán 
những ng−ời XHCN áp dụng thuyết của 
David Ricardo, F. Engels còn nhấn 
mạnh: “Việc áp dụng nh− trên học 
thuyết Ricácđô - toàn bộ sản phẩm 
xã hội, sản phẩm của công nhân đều 
thuộc về họ, những ng−ời sản xuất thật 
sự duy nhất, - dẫn thẳng tới chủ nghĩa 
cộng sản. Nh−ng nh− Marx đã nhận xét 
ở những dòng kể trên, hiểu theo nghĩa 
kinh tế - hình thức kết luận ấy là sai, vì 
Sự phê phán của Marx và Engels 15 
đó đơn giản chỉ là sự áp dụng đạo đức 
vào kinh tế chính trị học. Theo những 
quy luật của kinh tế chính trị học t− 
sản, phần lớn nhất sản phẩm không 
thuộc về công nhân, những ng−ời 
đã sản xuất ra nó. Khi chúng tôi nói: 
điều đó là bất công, không thể nh− thế 
đ−ợc, - thì kinh tế chính trị học không 
có một mối quan tâm nào trực tiếp đến 
điều đó cả” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 
1995, Tập 21, tr.272). 
3. Việc phê phán những quan điểm 
công bằng mang tính ảo t−ởng của 
những ng−ời theo môn phái XHCN thời 
đó cũng chính là sự phê phán của 
Engels đối với sự bất công và bất bình 
đẳng của quan hệ trao đổi ngang giá 
trong nền sản xuất TBCN. 
Sở dĩ trong chế độ sở hữu t− nhân về 
t− liệu sản xuất, mong muốn thực hiện 
đ−ợc nguyên tắc phân phối (theo lao 
động) của những ng−ời XHCN trên đây 
không thể trở thành hiện thực, bởi vì 
theo quan điểm của Engels thì bao giờ 
“sự công bằng hình nh− đòi hỏi cả hai 
bên ngay từ đầu đã phải đ−ợc đặt vào 
những điều kiện nh− nhau” (C. Mác và 
Ph. Ăngghen, 1995, Tập 19, tr.367), thế 
nh−ng trong nền sản xuất TBCN sự 
thật lại không phải nh− vậy. Trong cuộc 
chạy đua với nhà t− bản, ng−ời lao động 
luôn ở vào thế bất lợi. 
Có thể nói, trên thực tế, trong nền 
sản xuất hàng hoá TBCN, nguyên tắc 
trao đổi ngang giá đ−ợc thực hiện đối 
với mọi hàng hoá nói chung, trong đó có 
cả hàng hoá sức lao động. Hàng hoá sức 
lao động ấy trong CNTB đã thuộc sở 
hữu của chính ng−ời lao động, cho nên 
ng−ời lao động đã đ−ợc tự do định đoạt 
đối với lao động của chính mình, nghĩa 
là ng−ời lao động ở đây đã thực sự đ−ợc 
giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào ruộng 
đất của chủ đất, không còn phải lao 
động cống nạp nh− thời kỳ phong kiến. 
Nhờ đó ng−ời công nhân trong CNTB 
đ−ợc tham gia một cách tự do, bình 
đẳng vào quan hệ mua bán sức lao động 
với nhà t− bản, đ−ợc toàn quyền quyết 
định bán hay không bán sức lao động 
của mình cho nhà t− bản trên cơ sở 
“thuận mua vừa bán” theo đúng quy 
luật của thị tr−ờng. Từ góc độ này mà 
xét thì quan hệ phân phối sản phẩm 
giữa nhà t− bản và ng−ời công nhân dựa 
trên sự đóng góp công sức của cả nhà t− 
bản và ng−ời công nhân vào việc làm ra 
sản phẩm là hoàn toàn công bằng: ng−ời 
công nhân đã đ−ợc nhận hoàn toàn đầy 
đủ tiền công của mình theo đúng giá cả 
đã đ−ợc thoả thuận giữa anh ta với nhà 
t− bản, còn nhà t− bản đ−ơng nhiên 
đ−ợc nhận toàn bộ phần còn lại của sản 
phẩm do đóng góp của anh ta về vốn 
(d−ới dạng t− liệu sản xuất và tiền công 
trả cho công nhân) vào việc tạo ra sản 
phẩm. Do đó, nhìn bề ngoài thì quan hệ 
phân phối, hơn nữa, đây lại là quan hệ 
phân phối thống trị trong CNTB, là 
hoàn toàn công bằng và việc giai cấp t− 
sản coi nguyên tắc trao đổi ngang giá 
chính là th−ớc đo của CBXH không phải 
là không có lý. 
Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ thì sự 
thực lại không phải hoàn toàn nh− thế. 
Tr−ớc hết, cần nhận xét rằng trong nền 
sản xuất hàng hoá, bản thân nguyên tắc 
trao đổi ngang giá mang tính công bằng 
và về ph−ơng diện này nó là động lực 
của sự phát triển kinh tế. Nh−ng trên 
thực tế, trong nền kinh tế thị tr−ờng 
TBCN, nguyên tắc trao đổi ngang giá 
này đã không đ−ợc thực hiện đúng nh− 
lý thuyết. Thực vậy, trong nền kinh tế 
thị tr−ờng đó, giá cả trên thị tr−ờng 
16 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2015 
không phải khi nào cũng phù hợp với 
giá trị vì nó đ−ợc hình thành d−ới tác 
động của nhiều yếu tố. K. Marx nhận 
xét: “Giá trị hàng hoá đ−ợc quy định bởi 
lao động cần thiết để sản xuất ra hàng 
hoá đó. Nh−ng tuy vậy, ng−ời ta thấy 
rằng trong thế giới tội lỗi của chúng ta 
hàng hoá đ−ợc bán ra lúc cao, lúc thấp 
hơn giá trị của nó, vả lại không chỉ do 
những dao động bắt nguồn từ cạnh 
tranh” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 1995, 
Tập 21, tr.273). Riêng đối với tr−ờng 
hợp mua - bán sức lao động thì còn phải 
tính đến những sự thực sau đây: 
Thứ nhất, trong quan hệ mua - bán 
sức lao động giữa nhà t− bản và ng−ời 
công nhân, nhà t− bản ở thế mạnh vì 
anh ta sở hữu toàn bộ t− liệu sản xuất, 
còn ng−ời công nhân ở thế yếu vì chỉ sở 
hữu sức lao động của bản thân mình. 
Cái đói buộc ng−ời công nhân phải bán 
sức lao động thấp hơn giá trị của nó. Vì 
thế, việc ng−ời công nhân chỉ nhận đ−ợc 
phần tiền công ngang bằng với giá cả 
đ−ợc đem bán trên thị tr−ờng thực ra là 
sự trao đổi không ngang giá chứ không 
phải là ngang giá. Mặt khác, trong nền 
sản xuất TBCN, hàng hoá sức lao động 
còn phải chịu sự chi phối trực tiếp của 
quy luật cạnh tranh trên thị tr−ờng. 
Đứng tr−ớc sự cạnh tranh, nếu nh− 
không muốn bị tiêu diệt, nhà t− bản cá 
biệt đã buộc phải không ngừng cải tiến 
máy móc nhằm tăng năng suất lao động. 
Nh−ng máy móc đ−ợc cải tiến sẽ làm 
cho một số lao động của con ng−ời trở 
thành thừa. Việc tăng c−ờng cải tiến và 
tăng thêm việc sử dụng máy móc đã tạo 
ra một số công nhân làm thuê v−ợt quá 
nhu cầu thuê m−ớn trung bình của nhà 
t− sản. “Đạo quân ấy - Ph. Ăngghen viết 
- là hòn đá buộc chân giai cấp công 
nhân trong cuộc đấu tranh sống còn 
giữa họ và t− bản: là yếu tố điều tiết giữ 
tiền công ở mức thấp phù hợp với yêu 
cầu của t− bản. Nh− vậy là máy móc, 
theo lời của Marx, trở thành công cụ 
mạnh mẽ nhất của nhà t− bản để chống 
lại giai cấp công nhân; là công cụ lao 
động luôn luôn c−ớp mất t− liệu sinh 
sống trong tay ng−ời lao động, và chính 
sản phẩm của công nhân lại trở thành 
công cụ nô dịch bản thân họ” (C. Mác và 
Ph. Ăngghen, 1995, Tập 19, tr.317). 
Do vị thế bất lợi tr−ớc sự chi phối 
bởi quy luật cạnh tranh đối với hàng 
hoá sức lao động, cho nên ng−ời lao 
động luôn luôn đứng tr−ớc mối đe doạ bị 
mất việc làm, tức là bị mất nguồn sống 
của mình và gia đình mình. Ng−ời công 
nhân, theo F. Engels, “chỉ dựa vào tiền 
công để sống” nên họ đã “buộc phải 
nhận việc làm với những địa điểm, thời 
gian và điều kiện nào mà anh ta có thể 
có đ−ợc” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 1995, 
Tập 19, tr.367). Tình thế đó khiến ng−ời 
công nhân không còn đ−ợc tự do lựa 
chọn một cách thực sự trong quan hệ 
trao đổi đ−ợc coi là tự nguyện - một đặc 
tr−ng của nguyên tắc công bằng trong 
nền sản xuất hàng hoá - và càng lâm 
vào cảnh buộc phải bán sức lao động của 
mình d−ới giá trị. 
Thứ hai, trong giao dịch mua bán 
sức lao động giữa ng−ời bán (ng−ời công 
nhân) và ng−ời mua (nhà t− bản) thì 
ng−ời bán nhận đ−ợc giá trị của món 
hàng của mình t−ơng ứng với một số 
tiền công theo giá cả của thị tr−ờng. Còn 
ng−ời mua lại nhận đ−ợc giá trị sử dụng 
của món hàng ấy và sử dụng nó để biến 
những t− liệu sản xuất vốn thuộc về 
phần mình thành một sản phẩm mới, 
bao gồm cả t− bản ứng tr−ớc và cả phần 
giá trị thặng d−. Do đó, đối với ng−ời 
mua sức lao động (nhà t− bản), “số giá 
Sự phê phán của Marx và Engels 17 
trị đã ứng ra làm tiền công không phải 
chỉ giản đơn tái hiện trong sản phẩm, 
mà lại còn đ−ợc tăng thêm một khoản 
giá trị thặng d− nữa, thì điều đó diễn ra 
không phải là do ng−ời bán đã bị lừa bịp 
- vì ng−ời này đã nhận đ−ợc giá trị của 
hàng hoá của anh ta rồi - mà chỉ do 
ng−ời mua đã tiêu dùng hàng hoá đó”. 
Đây là một trao đổi hoàn toàn phù hợp 
với các quy luật kinh tế của nền sản 
xuất hàng hoá và với quyền sở hữu do 
các quy luật ấy đẻ ra, nh−ng lại dẫn đến 
kết quả là: 
“1. sản phẩm thuộc về nhà t− bản, 
chứ không phải thuộc về công nhân; 
 2. giá trị của sản phẩm ấy, ngoài 
giá trị của t− bản ứng ra, còn bao gồm 
một giá trị thặng d− mà ng−ời công 
nhân đã tốn lao động để tạo ra, còn nhà 
t− bản thì chẳng phải tốn gì cả, và tuy 
vậy giá trị thặng d− ấy lại là vật sở hữu 
hợp pháp của nhà t− bản; 
 3. ng−ời công nhân vẫn duy trì 
đ−ợc sức lao động của mình và lại có thể 
đem bán nữa nếu tìm đ−ợc ng−ời mua” 
(C. Mác và Ph. Ăngghen, 1993, Tập 23, 
tr.825-826). 
Nh− vậy, không giống với những 
hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động 
sau khi đ−ợc sử dụng còn tạo đ−ợc giá 
trị mới lớn hơn giá trị ban đầu khi đ−ợc 
đem bán trên thị tr−ờng t−ơng ứng với 
số tiền công nhất định. Vì thế, việc 
ng−ời lao động chỉ nhận đ−ợc phần tiền 
công ngang bằng với giá cả lúc đ−ợc đem 
bán trên thị tr−ờng chứ không phải 
ngang bằng với giá trị gia tăng sau chu 
trình sản xuất chứng tỏ rằng, mặc dù 
quan hệ mua - bán ở đây đ−ợc coi là 
quan hệ trao đổi ngang giá, công bằng, 
nh−ng về thực chất đó không phải là sự 
trao đổi ngang giá, công bằng. Nói cách 
khác, d−ới vẻ ngoài công bằng, nguyên 
tắc trao đổi ngang giá đã che giấu sự 
không công bằng thực sự trong nguyên 
tắc phân phối chủ đạo của CNTB. 
Thứ ba, sự không công bằng trong 
phân phối của CNTB còn thể hiện ở chỗ 
CNTB thực hiện phân phối sản phẩm 
sau chu trình sản xuất chủ yếu không 
phải theo lao động mà theo mức độ đầu 
t− t− bản vào sản xuất kinh doanh, 
mặc dầu chỉ có lao động của con ng−ời 
mới tạo ra giá trị thặng d−, mới làm gia 
tăng giá trị của t− bản ban đầu sau chu 
trình sản xuất. Chính vì sản phẩm của 
lao động đ−ợc phân phối theo cách ấy 
nên “ng−ời nào không có sở hữu nào 
khác ngoài sức lao động của mình ra... 
đều nhất định sẽ phải làm nô lệ cho 
những kẻ khác nắm trong tay những 
điều kiện vật chất của lao động. Ng−ời 
đó chỉ có thể lao động và do đó chỉ có 
thể sinh sống, khi đ−ợc những kẻ này 
cho phép” (C. Mác và Ph. Ăngghen, 
1995, Tập 19, tr.27). Hậu quả của cách 
phân phối này là trong CNTB, ở điểm 
này nh− K. Marx cũng đã chỉ ra, “Lao 
động càng phát triển lên thành lao 
động xã hội (ng−ời trích nhấn mạnh) và 
do đó trở thành nguồn của của cải và 
của văn hoá thì sự nghèo khổ và cảnh 
sống vất v−ởng lại càng phát triển ở 
phía ng−ời lao động, còn của cải và văn 
hoá lại ngày càng phát triển ở phía kẻ 
không lao động” (C. Mác và Ph. 
Ăngghen, 1995, Tập 19, tr.29). 
Từ những nội dung trên cho thấy, 
nguyên tắc phân phối chủ đạo của 
CNTB sự thực vẫn là một nguyên tắc 
phân phối không công bằng, chỉ có điều 
sự không công bằng này đ−ợc che giấu 
một cách tinh vi bởi một vẻ ngoài rất 
công bằng qua nguyên tắc trao đổi 
ngang giá. 
18 Thông tin Khoa học xã hội, số 3.2015 
Mặc dầu vậy, so với quan hệ phân 
phối mang tính cống nạp và lệ thuộc của 
ng−ời lao động đối với lãnh chúa trong 
ph−ơng thức sản xuất phong kiến, thì 
nguyên tắc phân phối chủ đạo trong 
ph−ơng thức sản xuất TBCN vẫn là một 
nguyên tắc phân phối công bằng hơn, 
bởi vì, nó đã giải phóng ng−ời lao động 
khỏi sự trói buộc vào ruộng đất, làm cho 
ng−ời lao động không còn phải lao động 
cống nạp cho địa chủ qua các loại địa tô 
và đặc biệt là ng−ời lao động đ−ợc hoàn 
toàn tự do trong quan hệ mua - bán sức 
lao động nh− bất cứ một hàng hoá nào 
khác theo nguyên tắc ngang giá trên thị 
tr−ờng. Thêm nữa, trong nguyên tắc 
phân phối ấy, việc phân phối theo lao 
động đã đ−ợc thực hiện ở mức độ nhất 
định (thể hiện ở việc nhà t− bản trả tiền 
công cho ng−ời lao động thông qua mua 
- bán sức lao động theo nguyên tắc 
thuận mua vừa bán). Những điều ấy 
chứng tỏ nguyên tắc phân phối chủ đạo 
của CNTB dù vẫn là nguyên tắc phân 
phối bất công và nó chỉ có thể đ−ợc khắc 
phục ở một hình thái kinh tế xã hội cao 
hơn - hình thái kinh tế - xã hội cộng sản 
chủ nghĩa. 
Nh− vậy, để xây dựng đ−ợc một 
xã hội công bằng thực sự thì phải xoá bỏ 
sự bất bình đẳng về những điều kiện 
ban đầu ấy. Muốn thế, phải làm cho mọi 
ng−ời đ−ợc bình đẳng trong quan hệ sở 
hữu, tức là phải làm cho mọi ng−ời phải 
ngang bằng về địa vị trong quan hệ đối 
với t− liệu sản xuất. Đây là điểm nhấn 
mạnh của chủ nghĩa Marx về xuất phát 
điểm bình đẳng làm cơ sở để thực hiện 
đ−ợc công bằng thực sự trong xã hội  
Tài liệu tham khảo 
1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn 
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
2. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn 
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
(Tiếp theo trang 60) 
Năm 2015 là năm bản lề để chuẩn 
bị cho kỳ kế hoạch kinh tế - xã hội giai 
đoạn 2016-2020 và cũng là năm Việt 
Nam kỳ vọng tham gia nhiều hiệp định 
th−ơng mại quan trọng, có ảnh h−ởng 
lớn tới sự phát triển kinh tế của đất 
n−ớc. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa nông nghiệp là giải pháp then 
chốt để bảo đảm tăng tr−ởng bền vững 
vì nông nghiệp chiếm gần 50% lao động 
và khoảng 70% dân số ở nông thôn. 
Trong nỗ lực tái cơ cấu kinh tế, Việt 
Nam cần chú trọng đẩy nhanh tái cơ 
cấu nông nghiệp và xây dựng nông 
thôn mới theo h−ớng xây dựng nền 
nông nghiệp hiện đại và thân thiện với 
môi tr−ờng. 
Bên cạnh −u tiên đầu t− hạ tầng 
nông nghiệp, các cơ quan quản lý nhà 
n−ớc cần tập trung tháo gỡ tắc nghẽn về 
cơ chế, chính sách nhằm giải phóng sức 
sản xuất trong nông nghiệp; lựa chọn 
ngành hàng chiến l−ợc để phát triển các 
chuỗi ngành/hàng sản xuất - chế biến - 
phân phối; −u tiên phát triển công 
nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp 
nhằm tăng giá trị và sức cạnh tranh 
nông sản. 
Linh chi 

File đính kèm:

  • pdfsu_phe_phan_cua_marx_va_engels_ve_thuc_chat_cua_cong_bang_xa.pdf