Sử dụng dữ liệu nhận dạng tự động (AIS) ước tính lượng khí phát thải của tàu thuyền hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
90% khối lượng vận tải hàng hoá trên thế giới được vận chuyển bằng đường
hàng hải. Quá trình đốt cháy tạo năng lượng bên trong các động cơ diesel của tàu
thuyền tạo ra một lượng chất ô nhiễm đáng kể, người ta ước tính rằng có khoảng 450
loại chất gây ô nhiễm khác nhau được sản sinh ra từ quá trình đốt cháy bên trong
động cơ tàu thủy [1]. Những chất ô nhiễm này, có thể làm suy giảm tầng ôzôn, tăng
cường hiệu ứng nhà kính, tạo ra mưa axit, gây hại cho sức khỏe của con người [2].
Merk (2014) báo cáo rằng lượng phát thải CO2, NOx, SOx và PM10 trong các cảng
vận chuyển toàn cầu lần lượt là 18; 0,4; 0,2 và 0,03 triệu tấn trong năm 2011 và
khoảng 85% lượng khí thải đến từ các tàu container và tàu chở dầu [1]. Trong
nghiên cứu của Corbett (1999), các tàu thương mại quốc tế đóng góp 30% lượng
NOx toàn cầu và 9% SOx [3]. Thông qua việc phân tích dữ liệu từ Hệ thống nhận
dạng tự động của tàu (AIS), Deniz (2008) xác định rằng 17% lượng khí thải này là ở
các eo biển của Thổ Nhĩ Kỳ, 30% là từ các tàu quá cảnh qua Biển Marmara, 48% là
từ các tàu đậu tại các cảng ở Biển Marmara, và 5% là từ các tàu quá cảnh Biển
Marmara [4].
Ở nước ta, đã có một số báo cáo trong năm 2019 của TS Hồ Quốc Bằng và cs.
[5, 6], Vũ Hoàng Ngọc Khuê và cs. [7] nhằm xác định phát thải chất ô nhiễm do
hoạt động vận tải đường thuỷ và hoạt động cảng biển thuộc Tp. HCM được tiến
hành trong khuôn khổ Dự án "Phát triển bền vững cảng biển tại khu vực ASEAN"
do Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức (viết tắt là GIZ) tài trợ. Các nghiên cứu này đã sử
dụng mô hình tính toán từ Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (US EPA - 2009) phân
tích dữ liệu điều tra thực tế để ước tính phát thải tại một số cảng tiêu biểu ở Tp.
HCM sau đó dựa trên quy mô vận hành của các cảng còn lại để suy ra tổng lượng
phát thải của các chất gây ô nhiễm của hệ thống cảng tại Tp. HCM trong năm 2019
tương ứng lần lượt là 4121, 750, 2005 tấn NOx, CO và SO2. Nghiên cứu này được
tiến hành cùng thời điểm với các báo cáo trên nhưng dựa trên một hướng tiếp cận
khác đó là thông qua dữ liệu nhận dạng tự động tàu (AIS) thiết lập một cơ sở dữ liệu
phát thải của toàn bộ hoạt động vận tải đường thuỷ ra vào khu vực Tp. HCM trong 6
tháng cuối năm 2019.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng dữ liệu nhận dạng tự động (AIS) ước tính lượng khí phát thải của tàu thuyền hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh
O và SO2. Kết quả còn cho thấy tổng lượng khí thải CO2 chiếm khối lượng lớn nhất trong tổng lượng phát thải, được ước tính là khoảng 489,737 x103 tấn. Bến Cản Đường thuỷ Khu vực thu thập Luồng Soài Luồng Sài Gòn- Luồng Luồng Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 8 Trong nghiên cứu này, tàu được chia thành 07 loại: Tàu container, Tàu chở hàng khô, tàu chở dầu, tàu chở khách, tàu cá, tàu đẩy/tàu kéo, và các loại tàu khác. Theo đó tỷ lệ của tổng lượng khí thải của tàu chở khách 6,2%, tàu chở hàng khô 16,62%, tàu container 41,89%, tàu chở dầu 14,89%, tàu lai dắt 5,67% tàu cá 7,93% và tàu khác 6,8%. Phù hợp với tỷ trọng ngành cảng biển ở nước ta, tàu container tại khu vực Cảng TP. HCM chiếm tỷ lệ phát thải lớn nhất vì lượng hàng hoá lớn được vận chuyển liên tục bởi loại tàu này tại khu vực. Bảng 4. Tổng phát thải tàu tại khu vực quan sát từ tháng 6/2019 đến tháng 11/2019 (đơn vị: tấn) Loại tàu NOx CO2 CO SO2 % phát thải Tàu hàng khô 469,58 82698,45 227,46 240,72 16,62 Tàu dầu 355,54 74364,25 22,32 194,72 14,89 Tàu container 822,3 209326,36 239,12 439,34 41,89 Tàu khách 271,19 30836,5 31,89 68,7 6,2 Tàu lai dắt 265,81 28148,95 39,33 79,24 5,67 Tàu cá 220,59 39460,4 177,82 40,93 7,93 Tàu khác 284,87 33793,44 84,46 70,84 6,8 Tổng 2689,88 498628,35 822,4 1134,49 100 Lượng phát thải của 3 loại khí thải NOx, SO2, CO tính theo tấn trong nghiên cứu này đều cao hơn so với các báo cáo của Vũ Hoàng Ngọc Khuê và cs. 2019 [6, 7]. Hình 3 cho thấy kết quả so sánh tổng phát thải bình quân theo năm giữa 2 nghiên cứu. Trong các báo cáo của Vũ Hoàng Ngọc Khuê và cs. 2019, ước tính phát thải tại các cảng được thực hiện bằng cách khảo sát thông tin neo đậu của 4 nhóm tàu thuyền phát thải chủ yếu bao gồm tàu container, tàu chở hàng khô, tàu chở hàng đóng kiện, tàu khách và các thiết bị bốc dỡ hàng hóa tại hệ thống cảng Sài Gòn, sau đó tính toán phát thải sử dụng công thức theo hướng dẫn của US EPA theo phương trình (8) E = N P LF A EF (8) Trong đó: E: Tải lượng phát thải (g); P: Công suất máy chính (kW); LF: Hệ số tải của động cơ chính (%); N: Số thiết bị; EF: Hệ số phát thải (g/kWh); A: Thời gian hoạt động (giờ). Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 9 Hình 3. So sánh phát thải bình quân theo năm của 3 loại khí thải NOx, SO2, CO Từ phát thải của các cảng đại diện, Khuê và cs. tính phát thải cho các cảng còn lại dựa vào công suất bốc dỡ hàng hóa hàng năm cho hệ thống cảng của thành phố. Lượng phát thải của nghiên cứu này cao hơn so với báo cáo của Khuê và cs. 2019 có thể lí giải do nghiên cứu này sử dụng dữ liệu AIS, nên toàn bộ các tàu có trọng tải trên 300 tấn (quy định của công ước luật biển yêu cầu tất cả các phương tiện đường thuỷ trên 300 tấn đều phải lắp đặt thiết bị này nhằm đảm bảo an toàn) đều được thống kê phát thải. Bên cạnh đó công thức theo hướng dẫn của US EPA chưa tính toán đến phát thải của động cơ máy phụ trên tàu và việc sử dụng công suất bốc dỡ của các cảng để nội suy phát thải cho một số cảng có thể tồn tại sai số. Bỏ qua sự khác biệt kết quả do cách tiếp cận khác nhau, phương pháp Khuê và cs. chỉ phân tích các hoạt động tại cảng và ước lượng phát thải tổng số cho các yếu tố ô nhiễm mà không thu thập dữ liệu về hoạt động thực tế của tàu thuyền trên các tuyến luồng ra vào thành phố, cũng như không phân tích tỷ lệ phát thải từ các nhóm tàu khác nhau để đề xuất các giải pháp quản lý nhằm giải quyết các vấn đề ô nhiễm liên quan. Tuy nhiên qua nghiên cứu Vũ Hoàng Ngọc Khuê và cs. 2019 cũng cho thấy mặt hạn chế của đề tài này là chưa ước tính phát thải của các thiết bị bốc dỡ hàng hoá tại các cảng. Cũng theo báo cáo của Vũ Hoàng Ngọc Khuê và cs. 2019, tổng lượng phát thải hàng năm của hoạt động giao thông tại Tp. HCM lần lượt cho 3 loại khí thải NOx, CO, SO2 là 47048; 3499354; và 10114 tấn. Khi đối chiếu với kết quả tính toán của đề tài cho thấy hoạt động vận tải đường thuỷ đã chiếm 11,23%; 0,045% và 22,44% tổng lượng phát thải của hoạt động giao thông lần lượt cho 3 loại khí thải NOx, CO, SO2. Tỷ lệ này chỉ ra rằng hoạt động tàu thuyền tại khu vực đóng góp một lượng lớn NOx và SO2 cho phát thải của toàn thành phố. 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 NOx SO2 CO Nghiên cứu này Báo cáo của Vũ Hoàng Ngọc Khuê và cs,. 2019 Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 10 3.2. Lượng phát thải SO2 từ tháng 6 đến tháng 11/2019 Hình 4 trình bày tổng lượng phát thải SO2 từ tàu hàng tháng ở khu vực nghiên cứu. Hình 4. Biến đổi phát thải SO2 theo tháng (tấn) Qua biểu đồ ta thấy, tháng 6 có lượng phát thải thấp nhất với tổng lượng phát thải là 136,7 tấn, sau đó lượng phát thải tăng đều qua các tháng và đạt giá trị cao nhất vào tháng 10 với tổng lượng phát thải SO2 trong tháng là 229,55 tấn. Tháng 11 lượng phát thải giảm nhẹ (223,66 tấn), tuy nhiên sự thay đổi là không đáng kể và vẫn trong xu thế tăng dần về cuối năm. Có thể lý giải phát thải tăng dần đều về các tháng cuối năm do hoạt động của tàu container tại khu vực nghiên cứu chiếm tỷ lệ phát thải lớn nhất theo kết quả tỷ lệ phần trăm phát thải của nhóm tàu này (thể hiện tại bảng 4) và càng về cuối năm, nhu cầu vận tải hàng hoá bằng phương tiện này tăng dần nhằm đáp ứng nhu cầu xuất-nhập khẩu hàng hoá phục vụ cho các đợt mua sắm mạnh. Sự biến động này khác hẳn với các nghiên cứu biến động theo mùa ở châu Âu được Jalkanen và cs. tiến hành năm 2009, trong đó hoạt động vận tải giảm dần về cuối năm do vào mùa đông các tuyến đường vận chuyển bị đóng băng [9]. 3.4. Phát thải theo loại tàu và điều kiện vận hành Các đặc điểm của khí thải tàu theo các loại tàu được trình bày tại hình 5. Kết quả cho thấy tỷ lệ đóng góp phát thải SO2, CO2 và NOx từ các loại tàu khác nhau. Trong số các loại tàu, tàu container thải ra lượng chất gây ô nhiễm cao nhất, tiếp theo là tàu chở hàng khô. Các tàu container thải ra 239,12 tấn; 209,32 103 tấn và 822,3 tấn SO2, CO2 và NOx tương ứng. Các tàu chở hàng khô thải ra 227,46 tấn; 82,7 103 tấn và 469,58 tấn SO2, CO2 và NOx tương ứng. Tàu container và tàu chở hàng rời tạo ra gần 60% lượng khí thải. Điều này phù hợp với kết quả của Fan (2016) tiến hành nghiên cứu phát thải của tàu thuyền ra vào các cảng ở Đồng bằng châu thổ sông Trường Giang, Trung Quốc do các nước đang phát triển nhu cầu vận tải hàng hoá phục vụ phát triển kinh tế và sản xuất luôn chiếm tỷ trọng cao nhất [14]. 136,7 165,34 176,12 203,12 229,55 223,66 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 11 Hình 5. Tỷ lệ đóng góp phát thải SO2, CO2 và NOx từ các loại tàu khác nhau - Tỷ lệ % khí thải của tàu theo các điều kiện vận hành khác nhau được thể hiện trong hình 6. Các kết quả này cho thấy khoảng 43-47% lượng khí thải phát ra trong chế độ hành trình. Khí thải được tạo ra trong quá trình neo đậu chiếm khoảng 34- 41% và chế độ điều động chiếm 15-22%. Kết quả chỉ ra một lượng khí thải đáng kể đã được tạo ra trong chế độ neo đậu, phù hợp với nghiên cứu cũng sử dụng dữ liệu AIS tại các cảng ở Hồng Kông năm 2013 [17] (diện tích Hồng Kông 1106 km2). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Fan và cs. 2016 [14] đã phát hiện ra rằng khoảng 70%- 80% lượng khí thải đã xảy ra trong ở chế độ hành trình tại đồng bằng sông Trường Giang (dài 6385 km so với toàn bộ hệ thống đường thủy trên địa bàn Tp. HCM có tổng chiều dài 975km). Qua đó cho thấy các khu vực cảng khác nhau sẽ có tỷ lệ phát thải của các chế độ vận hành khác nhau tuỳ thuộc vào quy mô của khu vực cảng tiến hành nghiên cứu phát thải. Khi khu vực nghiên cứu được mở rộng, thời gian tàu ở chế độ hành trình sẽ được kéo dài, do đó làm tăng lượng khí thải ở chế độ này. Hình 6. Phát thải của tàu theo các chế độ vận hành khác nhau 47,1 43,7 44,5 43,4 17,7 15,4 20,8 22,2 35,2 40,9 34,7 34,4 0 20 40 60 80 100 NOx SO2 CO CO2 Hành trình Chuyển bến Neo đậu 17% 13% 31% 10% 10% 8% 11% Tàu hàng khô Tàu dầu Tàu container Tàu khách Tàu lai dắt Tàu cá Tàu khác 21% 17% 39% 6% 7% 4% 6% 16% 15% 42% 6% 6% 8% 7% NOx CO2 SO2 Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 12 4. KẾT LUẬN - Tổng lượng phát thải NOx, CO và SO2 ước tính từ các tàu thuyền trong sáu tháng khảo sát lần lượt là 2,69; 0,82; 1,13x103 tấn tương đương với 11,23%; 0,045% và 22,44% so với tổng số phát thải nguồn nhân tạo ở Tp. HCM trong 1 năm theo báo cáo của Vũ Hoà Ngọc Khuê và cs. 2019. Tổng lượng khí thải CO2 do hoạt động tàu thuyền trong khu vực thải ra được ước tính là khoảng 489,74x03 tấn. - Với số lượng đông và công suất động cơ lớn các tàu container và tàu chở hàng khô đóng góp gần 60% tổng lượng khí thải của NOx, SO2 và CO2,. Trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 11/2019 lượng phát thải biến động tỷ lệ thuận với quy mô nhập- xuất hàng hoá gia tăng đều đặn dần về cuối năm. - Ở chế độ neo đậu tại cảng, tàu thuyền cũng tạo ra một nguồn phát thải đáng kể chiếm 34,41% tổng lượng phát thải các chất ô nhiễm trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 11/2019. Do đó trong trường hợp tàu phải kẹt lại quá lâu do các yếu tố bất khả kháng cần bố trí sử dụng điện bên bờ cho các hoạt động cần nguồn điện trên tàu để hạn chế việc phát thải từ hoạt động liên tục của động cơ phụ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Merk O., Shipping Emissions in Ports: Discussion,. International Transport Forum, Paris, France, 2014, tr.20. 2. Bin L., Cherng-Yuan L., Compliance with international emission regulations : Reducing the air pollution from merchant vessels, Marine Policy, 2005, 30:220. 3. Corbett J.J., Fischbeck P.S., Pandis S.N., Global nitrogen and sulfur emission inventories for oceangoing ships, Journal of Geophysical Research, 1999, 104:3462. 4. Deniz C., Durmusoğlu Y., Estimating shipping emissions in the region of the sea of Marmara. Sci. Total Environ, 2008, 390:255-261. 5. Hồ Quốc Bằng, Võ Thị Thanh Hương, Suwat Chuanak, Tính toán phát thải các chất ô nhiễm không khí và mô hình hoá chất lượng không khí cảng Sài Gòn, Việt Nam, Science & Technology Development, 2013, 16:12-21. 6. Vũ Hoàng Ngọc Khuê, Phạm Thị Nguyệt Thanh, Hồ Quốc Bằng,Nguyễn Thoại Tâm, Nguyễn Thị Thúy Hằng, Tính toán phát thải khí thải và ứng dụng hệ mô hình TAPM-AERMOD mô phỏng ô nhiễm không khí từ hệ thống bến cảng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp Chí Phát Triển Khoa Học & Công Nghệ: Chuyên San Khoa Học Trái Đất & Môi Trường, 2018, 2(2):97-106. 7. Vũ Hoàng Ngọc Khuê*, Hồ Minh Dũng, Nguyễn Thoại Tâm, Nguyễn Thị Thúy Hằng, Hồ Quốc Bằng, Kiểm kê và xây dựng bản đồ phát thải khí thải từ hoạt động giao thông cho Tp. HCM, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Khoa học Tự nhiên, 2019, 3:100-114. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 13 8. Miola A. and Ciuffo B., Designing a Climate Change Policy for the International Maritime Transport Sector: Market-Based Measures and Technological Options for Global and Regional Policy Actions, Energy Policy, 2011, 9:5490-5498. 9. Jalkanen J.P., Brink A., Kalli J. et al., A modelling system for the exhaust emissions of marine traffic and its application in the Baltic Sea area. Atmos Chem Phys, 2009, 9:9209-9223. 10. Miola A. and Ciuffo B., Estimating air emissions from ships: Meta-analysis of modelling approaches and available data sources, Atmospheric Environment, 2011, 45:2242-225. 11. Kristensen H.O., Determination of Regression Formulas for Main Dimensions of Tankers and Bulk Carriers Based on IHS Fairplay Data,Technical University of Denmark, 2012. 12. Trozzi C., Update of Emission Estimate Methodology for Maritime Navigation, Techne Consulting report, 2010. 13. Wen Yuan‐qiao, Ren Jun‐yong, Li Zhao‐ran., Research of Ship Optimal Speed with Minimum Emissions in the Process of Ships Entering and Leaving Port, Journal of Wuhan University of Technology, 2016, 40:2095‐3844. 14. Fan Q.Z., Zhang Y., Ma W.C., Ma H.X., Feng J.L., Yu Q., Yang X., Simon K.W.Ng., Fu Q.Y., Chen L.M., Spatial and seasonal dynamics of ship emissions over the Yangtze River Delta and East China Sea and their potential environmental influence, Environ Sci Technol, 2016, 50:1322-1329. 15. IMO., Prevention of Air Pollution from Ships-sulphur Monitoring for 2007, International Maritime Organization, 2007. 16. Starcrest Consulting Group., Port of Los Angeles Inventory of Air Emissions 2012, Technical Report, 2013. 17. Ng S.K.W., Loh C., Lin C., Booth V., Chan J.W.M., Yip A.C.K., Li Y. and Lau A.K.H., Policy change driven by an AIS-assisted marine emission inventory in Hong Kong and the Pearl River Delta. Atmospheric Environment, 2013, 76:102-112. SUMMARY ESTIMATION OF EXHAUST SHIP EMISSION FROM MARINE TRAFFIC IN PORTS OF HO CHI MINH CITY USING AUTOMATIC IDENTIFICATION SYSTEM (AIS) DATA The shipping industry, one of the least regulated sources of artificial emissions, has grown rapidly over the past decades. Increasing ship traffic has significantly affected the air quality in areas around seaports and navigational channels, especially in coastal areas. By processing the data set from the Automated Identification System (AIS) provided by Marinetraffic, this study has built a Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 14 secondary database of high-resolution ship emissions for Ho Chi Minh City, Vietnam, which was ranked 26th in the top 50 largest container ports in the world, according to the 2018 ranking of The Journal of Commerce (JOC),. The amount of CO, CO2, NOx, and SO2 emissions across the region from June to November 2019 is estimated at 0.82; 489.74; 2.69; 1.13x103 tons. Cruising mode of ships are the largest contributor in the total emissions of 43-47%, followed by the berths that also contribute a significant amount of emissions from 34-41%. By ship type, container ships are the largest group with 58104 ships and emit the most 210.87x103 tons of emissions, followed by dry tankers and oil tankers. These three types of ships account for 73.4% of total emissions. The specific Bottom-up approach is the STEAM model that was used to calculate the emission levels of 7 different ship groups. The results of the study can be used to propose effective solutions to limit the impact of ship emissions on Ho Chi Minh City's air quality. Keywords: Exhaust ship emissions, automatic identification system (AIS), Steam model, ports of Ho Chi Minh City. Nhận bài ngày 20 tháng 7 năm 2020 Phản biện xong ngày 24 tháng 8 năm 2020 Hoàn thiện ngày 22 tháng 9 năm 2020 (1) Chi nhánh Phía Nam, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
File đính kèm:
- su_dung_du_lieu_nhan_dang_tu_dong_ais_uoc_tinh_luong_khi_pha.pdf