Sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang qua đánh giá của du khách nội địa
TÓM TẮT
Với mục đích khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến sự đáp ứng các nguyên
tắc du lịch bền vững, phân tích sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững
của tỉnh An Giang, nghiên cứu này được thực hiện. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, 7 nhân tố ảnh hưởng đến sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững
của tỉnh An Giang theo tầm quan trọng giảm dần là “Hỗ trợ kinh tế địa
phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”, “Bảo vệ môi
trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa
phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du khách”, “Đào tạo nhân
viên”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững”, “Quản lý rác thải và hoạt
động thay đổi hành vi của người dân địa phương”, “Sự đa dạng thiên
nhiên”, “Sự đa dạng văn hóa”. Tỉnh An Giang được đánh giá cao về sự đáp
ứng các nguyên tắc du lịch bền vững.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang qua đánh giá của du khách nội địa
,000 1,03 Nhân tố 5 0,279 0,049 0,263 5,703 0,000 1,05 Nhân tố 6 0,174 0,045 0,174 3,854 0,000 1,01 Nhân tố 7 0,215 0,45 0,214 4,759 0,000 1,00 Nhân tố 8 0,190 0,046 0,185 4,106 0,000 1,00 Nguồn: Kết quả phỏng vấn trực tiếp du khách của nhóm nghiên cứu, 2018 Phương trình hồi quy tuyến tính như sau: Y = 0,014 + 0,439 F2 + 0,365 F1 + 0,348 F3 + 0,279 F5 + 0,215 F7 + 0,190 F8 + 0,174 F6 Nhân tố 2 (F2) có hệ số là 0,439 và quan hệ cùng chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến” tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,439 điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,439. Nhân tố 1 (F1) có hệ số là 0,365 và quan hệ cùng chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “Bảo vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du khách” tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,365 điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,365. Nhân tố 3 (F3) có hệ số là 0,348 và quan hệ cùng chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “Đào tạo nhân viên” tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,348 điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,348. Nhân tố 5 (F5) có hệ số là 0,279 và quan hệ cùng chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững” tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,279 điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,279. Nhân tố 7 (F7) có hệ số là 0,215 và quan hệ cùng chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi hành vi của người dân địa phương” tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,215 điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,215. Nhân tố 8 (F8) có hệ số là 0,190 và quan hệ cùng chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “Sự đa dạng thiên nhiên” tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc của du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,190 điểm, tương AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29 26 ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,190. Nhân tố 6 (F6) có hệ số là 0,174 và quan hệ cùng chiều với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang. Khi du khách đánh giá nhân tố “Sự đa dạng văn hóa” tăng thêm 1 điểm thì sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững ở địa bàn nghiên cứu tăng thêm 0,174 điểm, tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,174. Tổng hệ số hồi quy chuẩn hóa của nhân tố 1, 2, 3, 5, 6, 7, 8 là 1,97 (Bảng 2). Do đó, nhân tố 2 đóng góp 22,64%, nhân tố 1 đóng góp 17,47%, nhân tố 3 đóng góp 17,46%, nhân tố 5 đóng góp 13,35%, nhân tố 7 đóng góp 10,86%, nhân tố 8 đóng góp 9,39%, nhân tố 6 đóng góp 8,83% đối với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang. Điều này có nghĩa là “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến” đóng vai trò quan trọng nhất đối với sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang. Tầm quan trọng của các nhân tố khác theo thứ tự giảm dần là “Bảo vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du khách”, “Đào tạo nhân viên”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững”, “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi hành vi của người dân địa phương”, “Sự đa dạng thiên nhiên”, “Sự đa dạng văn hóa”. 3.2 Sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang Qua cảm nhận của du khách, 7 nhân tố ảnh hưởng đến sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững của tỉnh An Giang theo tầm quan trọng giảm dần là “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”, “Bảo vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du khách”, “Đào tạo nhân viên”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững”, “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi hành vi của người dân địa phương”, “Sự đa dạng thiên nhiên”, “Sự đa dạng văn hóa”. - Nhân tố “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến” được du khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững (M = 3,79). Các phương diện của nhân tố cũng được đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững bao gồm việc sử dụng sản vật địa phương trong chế biến món ăn (M = 4,00), xuất xứ địa phương của hàng lưu niệm (M = 3,89), sự tương thích giữa mức độ hấp dẫn của khu/điểm du lịch với thông tin quảng bá (M = 3,68), sự tham gia cung cấp dịch vụ tham quan của người dân địa phương (M = 3,60). Trong nhân tố này, hai khía cạnh được du khách đánh giá thấp nhất là sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến và mức độ tham gia của người dân địa phương trong cung cấp dịch vụ tham quan. - Nhân tố “Bảo vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du khách” được du khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững (M = 3,89). Các phương diện thuộc nhân tố này cũng được đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững, chẳng hạn, sự tham gia bán hàng lưu niệm của người dân địa phương ở điểm du lịch (M = 4,14), sự cung cấp dịch vụ ăn uống của người dân địa phương ở khu/điểm du lịch (M = 4,03), sự bố trí thùng đựng rác ở mỗi khu/điểm du lịch (M = 3,99), những quy định về hành vi của du khách nhằm bảo vệ các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể (M = 3,97), những quy định về hành vi của du khách nhằm bảo vệ môi trường và xã hội (M = 3,87), khả năng cải thiện sự hiểu biết của du khách về điểm đến thông qua sự cung cấp thông tin từ biển thông tin/ấn phẩm hướng dẫn du lịch ở khu/điểm du lịch (M = 3,85), sự hưởng lợi từ du lịch của người dân địa phương (M = 3,82), hệ thống cung cấp điện (M = 3,80), hệ thống giao thông đường bộ (M = 3,57). Trong các phương diện này, hệ AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29 27 thống giao thông đường bộ ở tỉnh An Giang được đánh giá thấp nhất. - Nhân tố “Đào tạo nhân viên” được du khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững (M = 3,64). Tuy nhiên, bên cạnh nhân viên phục vụ tham quan (M = 3,80), nhân viên lễ tân (M = 3,72), nhân viên phục vụ ăn uống (M = 3,61) được đánh giá cao, nhân viên bán hàng chỉ được du khách đánh giá ở mức không phải đáp ứng cũng không phải không đáp ứng sự bền vững (M = 3,42). Để nâng cao mức độ đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững, địa phương cần quan tâm nhiều hơn đối với công tác đào tạo nhân viên lễ tân, nhân viên phục vụ ăn uống và nhân viên bán hàng. - Nhân tố “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững” được du khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững (M = 3,71). Theo đó, tỉnh An Giang đã khai thác và bảo tồn tài nguyên du lịch tự nhiên tốt (M = 3,78), khai thác và bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn tốt (M = 3,74), các yếu tố văn hóa vẫn còn duy trì được tính chân thực (M = 3,61). Tuy nhiên, để cải thiện mức độ đáp ứng các nguyên tắc của du lịch bền vững, tỉnh cần quan tâm nhiều hơn đối với các phương diện này. - Nhân tố “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi hành vi của người dân địa phương” được đánh giá ở mức không phải đáp ứng cũng không phải không đáp ứng sự bền vững (M = 3,32). Theo đó, tỉnh An Giang có những quy định về hành vi ứng xử của người dân địa phương nhằm nâng cao vị thế hình ảnh của khu/điểm du lịch và quyền lợi của du khách (M = 3,54), tuy nhiên, ở khu/điểm du lịch của tỉnh vẫn còn tình trạng rác thải bừa bãi (M = 3,10). Để nâng cao mức độ đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững, địa phương cần quan tâm nhiều đối với hai phương diện này. - Nhân tố “Sự đa dạng thiên nhiên” được du khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững (M = 3,94). Điều này có nghĩa rằng, tỉnh An Giang có nhiều hệ sinh thái tự nhiên điển hình (M = 4,05) và đa dạng các loài động, thực vật (M = 3,83). - Nhân tố “Sự đa dạng văn hóa” được du khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững (M = 3,83). Theo đó, tỉnh An Giang có nhiều yếu tố văn hóa vật thể (M = 3,90) và văn hóa phi vật thể (M = 3,75). Như vậy, tỉnh An Giang có sự đáp ứng cao các nguyên tắc du lịch bền vững theo cảm nhận của du khách. Điều này được thể hiện qua 6 nhân tố được đánh giá ở mức đáp ứng và chỉ 1 nhân tố được đánh giá ở mức chưa đáp ứng sự bền vững. Mức độ đáp ứng sự bền vững của các nhân tố theo thứ tự giảm dần là “Sự đa dạng thiên nhiên”, “Bảo vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du khách”, “Sự đa dạng văn hóa”, “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững”, “Đào tạo nhân viên”. Nhân tố được đánh giá ở mức chưa đáp ứng sự bền vững là “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi hành vi của người dân địa phương”. 4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Du lịch bền vững có vai trò rất trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường của mỗi điểm đến bởi nó có khả năng tạo ra sự tác động thấp đối với môi trường, xã hội và văn hóa địa phương; tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người dân địa phương; mang lại những trải nghiệm tích cực cho người dân địa phương, công ty du lịch và du khách. Để thúc đẩy sự phát triển du lịch bền vững ở điểm đến, việc tham khảo các nguyên tắc du lịch bền vững của Tổ chức Tourism Concern và ứng dụng vào địa bàn quản lý là rất cần thiết. Tuy nhiên, để thực thi những giải pháp phát triển du lịch bền vững sát với địa phương nên thực hiện những nghiên cứu trên cơ sở nội dung các nguyên tắc du lịch bền vững của tổ chức trên. Kết quả nghiên cứu ở tỉnh An Giang cho thấy, có 7 nhân tố ảnh hưởng đến sự đáp ứng các nguyên tắc du lịch bền vững theo tầm quan trọng giảm AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29 28 dần là “Hỗ trợ kinh tế địa phương và sự trung thực trong quảng bá hình ảnh điểm đến”, “Bảo vệ môi trường, sự đầu tư cơ sở hạ tầng, sự tham gia và hưởng lợi của người dân địa phương, những hoạt động thay đổi hành vi của du khách”, “Đào tạo nhân viên”, “Sử dụng nguồn lực một cách bền vững”, “Quản lý rác thải và hoạt động thay đổi hành vi của người dân địa phương”, “Sự đa dạng thiên nhiên”, “Sự đa dạng văn hóa”. Tỉnh An Giang đáp ứng cao các nguyên tắc du lịch bền vững bởi 6/7 nhân tố được du khách đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững và 26/28 biến của những nhân tố được đánh giá ở mức đáp ứng sự bền vững. Để ngành du lịch tỉnh An Giang phát triển bền vững hơn trong tương lai, địa phương cần quan tâm đến các khuyến nghị sau đây: (1) Cung cấp đầy đủ thông tin về điểm đến du lịch nhưng phải đảm bảo tính trung thực nhằm tránh sự thất vọng của du khách; đảm bảo số lượng và chất lượng dịch vụ chào bán đúng như thông tin. (2) Phát triển du lịch theo hướng cộng đồng nhiều nhất có thể để cải thiện cơ hội tham gia vào du lịch của người dân và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. (3) Khảo sát, kiểm kê, đánh giá và đẩy mạnh đầu tư hệ thống giao thông đường bộ kết nối các điểm du lịch, các điểm tài nguyên có khả năng hấp dẫn du khách và có thể khai thác phục vụ du lịch ở tương lai. (4) Phân loại nhân viên phục vụ du lịch, đánh giá trình độ chuyên môn và nghiệp vụ du lịch của từng nhóm nhân viên, tiến hành đào tạo, bồi dưỡng; cần đặc biệt chú ý đến chất lượng của nhân viên lễ tân, nhân viên phục vụ ăn uống và nhân viên bán hàng. (5) Khai thác tài nguyên du lịch phải đi đôi với bảo tồn để không làm suy giảm số lượng và chất lượng các yếu tố hấp dẫn ở điểm đến du lịch; đảm bảo tính chân thực của văn hóa địa phương. (6) Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và hành vi của người dân địa phương có lợi cho hình ảnh điểm đến và đảm bảo quyền lợi cho du khách; đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường ở các điểm đến du lịch. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Chính trị. (2017). Nghị quyết về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Số 8- NQTW). Hà Nội: Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Daniels, P., Bradshaw, M., Shaw, D. & Sidaway, J. (2005). An Introduction to Human Geography. 2 edn. London: Pearson Publisher. Đinh Phi Hổ. (2012). Phương pháp nghiên cứu định lượng & Nghiên cứu thực tiễn trong kinh tế phát triển - nông nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Phương Đông. Lê Văn Huy., & Trương Trần Trâm Anh. (2012). Phương pháp nghiên cứu trong Kinh doanh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tài chính. Lê Văn Khoa (Chủ biên). (2009). Môi trường và phát triển bền vững. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Lu, J. & Nepal, S. K. (2009). Sustainable tourism research: an analysis of papers published in the Journal of sustainable tourism. Journal of sustainable tourism, 1, 5-16. Niedziolka, I. (2012). Sustainable tourism development. Regional formation and development studies, 8), 158-166. Sirakaya-Turk, E., Uysal, M., Hammitt, W. & Vaske, J. J. (2011). Research Methods for Leisure, Recreation and Tourism. Cambridge: Cambridge University Press. Lê Văn Thăng (Chủ biên). (2008). Giáo trình Du lịch và môi trường. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Lê Minh Tiến. (2003). Phương pháp thống kê trong nghiên cứu Xã hội. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ. AGU International Journal of Sciences – 2021, Vol. 27 (1), 18 – 29 29 Nguyễn Đình Thọ. (2011). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động - Xã hội. Tổ chức Tourism Concern. (1992). Bên kia chân trời xanh - Các nguyên tắc du lịch bền vững. Hà Nội: Cục Môi trường tổ chức dịch, chỉnh biên và xuất bản năm 1998. Hoàng Trọng., & Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS (tập 2). Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Hồng Đức. Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang. (2017). Chương trình hành động về phát triển hạ tầng du lịch tỉnh An Giang giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 (Số 59/CTr-UBND). An Giang: Ủy ban Nhân dân. Yazdi, S. K. (2012). Sustainable tourism. American International Journal of Social Science, 1(1), 50-56.
File đính kèm:
- su_dap_ung_cac_nguyen_tac_du_lich_ben_vung_cua_tinh_an_giang.pdf