Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg

Hinđu giáo là một tôn giáo lớn của đất nước Ấn Độ. Thế kỉ XIII - XVII, Ấn Độ

chịu sự xâm nhập và cai trị của người Hồi giáo. Trong bối cảnh đó, sự đụng độ với Hồi

giáo đã làm cho cả Hinđu giáo và Hồi giáo có sự cải huấn. Bài viết đề cập đến sự biến

đổi của Hinđu giáo trong bối cảnh khắc nghiệt của lịch sử, khẳng định sức sống mãnh

liệt của tôn giáo này, và phân tích bài học về tính mềm dẻo, linh hoạt trong cách ứng xử

tôn giáo.

Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg trang 1

Trang 1

Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg trang 2

Trang 2

Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg trang 3

Trang 3

Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg trang 4

Trang 4

Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg trang 5

Trang 5

Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 1600
Bạn đang xem tài liệu "Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg

Sự biến đổi của Hinđu giáo ở Ấn Độ dưới thời vương triều hồi giáo Đêli và đế quốc Môg
c về kinh tế, chính trị. Tính chất tàn bạo của sự cưỡng bức thể hiện rõ 
trong việc các Xuntan Đêli đặt những người Hinđu giáo trước sự lựa chọn “đạo Hồi hay 
là chết”[1]. Lịch sử đẫm máu của Ấn Độ trong thời kỳ các Hồi vương Đêli cai trị đã 
chứng thực sự tàn bạo đó. Ví dụ, chính người sáng lập Hồi quốc Đêli Cututdin Aibech 
đã phá huỷ hàng ngàn nhà thờ Hinđu giáo và thay thế vào đó những thánh đường Hồi 
giáo. Hành động này thể hiện sự xúc phạm niềm tin tôn giáo của bọn thống trị đối với 
tín đồ Hinđu một cách sâu sắc. Hồi giáo rõ ràng được áp đặt bằng chính sức mạnh của 
nhà nước, bằng sự phá hoại, chà đạp, xúc phạm tàn bạo những tôn giáo bản địa: “Người 
Hồi giáo muốn mua chỗ ngồi trên thiên đường bằng máu của bọn bất trung” (không thờ 
thánh Ala) [3]. Cả năm triều đại Đêli đều xem Hinđu giáo là “tà giáo” và thẳng tay đàn 
áp phong trào đấu tranh của họ không thương tiếc. Những người tham gia đấu tranh 
hoặc là bị lột da sống, bị ném xuống chân voi, vùi vào đống rơm cho chết ngạt, treo cổ 
lên cổng thành Đêli, hoặc bị biến thành nô lệ [2]. 
 Bên cạnh những biện pháp bạo lực đẫm máu trên, các Xuntan Đêli còn thực hiện 
chính sách phân biệt đối xử để mua chuộc, lôi kéo tín đồ của các tôn giáo khác theo đạo 
Hồi. Người Hồi giáo, không phụ thuộc vào địa vị xã hội đều được hưởng những đặc 
quyền nhất định: được cử làm quan, khi phạm pháp được xét xử ở toà án riêng, thương 
nhân được chiếu cố về thuế má - chỉ phải nộp bằng 1/2 so với thương nhân Hinđu giáo, 
được miễn thuế đầu người, giảm mức thuế ruộng. Các Hồi vương Đêli còn cho phép 
người Hinđu giáo ở bất kỳ đẳng cấp nào nếu lấy vợ hoặc chồng người Hồi giáo đều trở 
thành tín đồ Hồi giáo và được hưởng ưu đãi. Nếu những biện pháp bạo lực tỏ ra ít hiệu 
quả thì những biện pháp mua chuộc này đã hấp dẫn được một bộ phận đông đảo tín đồ 
Hinđu giáo cải hoá theo đạo Hồi. Hinđu giáo đứng trước thử thách khốc liệt của lịch sử. 
 Sang thời thống trị của vương triều Môgôn, mặc dù có mềm dẻo hơn nhưng với 
Hinđu giáo, vẫn là quan hệ với sự “thống trị” của Hồi giáo. 
 Trong bối cảnh trên, để chống lại sự tấn công, tiêu diệt của đạo Hồi, tiếp tục trụ lại 
và phát triển, Hinđu giáo đã có những biến đổi phù hợp. 
2. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA HINĐU GIÁO DƯỚI SỰ THỐNG TRỊ CỦA ĐẠO HỒI 
2.1. Sự nhấn mạnh con đường giải thoát sùng tín (Bhakti) 
 Giải thoát là mục đích cuối cùng của mọi tôn giáo. Theo truyền thống Hinđu giáo, 
có ba con đường dẫn tới sự giải thoát: Con đường trí thức (Jnana), con đường hành động 
(Karma) và con đường sùng tín (Bhakti). 
 73
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
 Hoàn toàn khác những thời kỳ phát triển trước, thời kỳ này Hinđu giáo đã nhấn 
mạnh con đường giải thoát Bhakti, con đường rộng mở nhất có thể dành cho mọi hạng 
người. Chỉ cần dâng tất cả lòng ngưỡng mộ, tin yêu chân thành, nồng nhiệt của tín đồ 
lên đấng tối cao con người đã được giải thoát. Trong sự đàn áp tàn bạo của Hồi giáo, 
Hinđu giáo đã tỏ ra khoan hoà, rộng mở hơn bao giờ hết. Nó đã suy tôn tình yêu và tôn 
giáo tình yêu. Thơ ca sùng tín trung đại chính là kinh điển quan trọng của tôn giáo ấy. 
Mảng thơ ca này đã thể hiện mãnh liệt sự dâng hiến, thái độ kính tín, ý thức phụng sự 
tận tâm tận lực của tín đồ Hinđu đối với thần thánh. Từ thế kỷ XI những lời ca thành 
kính với tấm lòng dâng nguyện của những tín đồ Bhakti đã tuôn trào, bỏng cháy và đến 
tận thế kỷ XVII những lời ca tâm nguyện ấy vẫn tràn đầy niềm hứng khởi... Con đường 
Bhakti hoàn toàn phù hợp với đại đa số quần chúng. Hinđu giáo đã chống đỡ mọi cuộc 
tấn công gay gắt của đạo Hồi với một sức kháng cự mềm dẻo và hiệu quả. Bởi vậy, 
trong thời kỳ này, nếu Hồi giáo là tôn giáo của nhà nước, của vương triều, của giai cấp 
thống trị thì Hinđu giáo vẫn là tôn giáo của quần chúng nhân dân, của những giai tầng 
nghèo khổ khác nhau trong xã hội, của những con người chỉ có lòng tin và sự sùng tín. 
Hinđu giáo, nhờ vậy, vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển, vẫn phát huy được nền văn hoá 
rực rỡ của mình, trong khi một số tôn giáo bản địa khác gần như bị tiêu diệt. 
2.2. Dành tình yêu hết lòng đối với một vị thần duy nhất được cá thể hoá và nhân cách hoá 
 Chúng ta biết rằng, Hinđu giáo là tôn giáo thờ đa thần. Hệ thống thần linh của nó 
rất đồ sộ, bao gồm hàng nghìn vị thần. Tuy nhiên, Hinđu giáo thời kỳ này không sùng 
tín tất cả các vị thần trong hệ thống thần linh đa dạng ấy mà chỉ dành tình yêu cho một 
vị thần duy nhất. Chủ yếu là Vishnu với hai kiếp hoá thân Krisna và hoàng tử Rama, 
Sihva cùng với Linga và vợ của thần. 
 Sự biến đổi của Hinđu giáo thời kỳ này còn được biểu hiện ở chỗ, các vị thần mà tín 
đồ Bhakti thờ phụng được cá thể hoá và nhân cách hoá rõ nét. Nếu các thần linh cơ bản 
của Hinđu giáo vốn mang tính trừu tượng, thần thánh hoá, vốn là đấng siêu nhiên, siêu 
nhân thì nay đã trở thành những nhân vật có cá tính rất cụ thể, mang phẩm chất của con 
người. Các vị thần này trong tâm thức của các tín đồ cũng hết sức gần gũi. Quan hệ giữa 
tín đồ và thần không còn là quan hệ giữa con người trần tục với lực lượng siêu nhiên nữa 
mà trở thành một quan hệ riêng tư, tình cảm, mang tính cá nhân, mật thiết. Đó là quan hệ 
giữa “kẻ nô tì” với “chúa tể”, giữa “đệ tử” với “sư phụ”, giữa “con” với “mẹ, cha” và phổ 
biến, thường xuyên nhất là giữa “người yêu” với “người yêu dấu”. Đó là những quan hệ 
hết sức trần thế, rất con người. 
 Những vị thần Bhakti cũng tràn đầy tình cảm, đầy tình yêu và sự hi sinh cho 
những tín đồ trung thành. Sihva đã trở thành một vị thần đầy tình thương mà các tín đồ 
mong mỏi. Krisna lại là một vũ trụ của tình yêu. Trong tác phẩm nổi tiếng Gita Gôvinđa 
(Mục tử ca) của Jayadeva - tác phẩm được đánh giá là đứng ở vị trí trung tâm trong 
dòng thơ sùng tín bao trùm sáu thế kỷ - Krisna đã hiện lên với mọi phương diện: vẻ đẹp 
hình thức, những khao khát bản năng, những lạc thú yêu đương. Nhân vật này quả thật 
tràn ngập tình yêu, thấm đẫm nhục cảm mà vẫn tao nhã, tuyệt nhiên không dung tục, 
tầm thường Hay Rama đã trở thành cứu cánh của cuộc sống. Vợ thần Sihva với nhiều 
tên gọi khác nhau lại trở thành hình ảnh người mẹ giàu lòng nhân ái 
 74
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
 So với Hinđu giáo thời kỳ trước, trạng thái tình cảm của các tín đồ Bhakti cũng 
được thể hiện ở mức độ sâu sắc hơn. Lòng sùng tín, trung thành, tình yêu đối với đấng tối 
cao, cả niềm vui lẫn nỗi khổ đau đều được đẩy lên đến tận cùng, sự hiến dâng, ý thức 
phụng sự cũng vậy, đến tận tâm, tận lực. Thơ ca sụng tín trung đại chính là những đỉnh 
điểm xúc cảm ấy. 
2.3. Chủ trương thiết lập mối giao cảm trực tiếp giữa tín đồ với thần thánh 
 Nét biến đổi này vừa thuộc phương diện giáo lý, vừa thuộc phương diện lễ thức 
của tôn giáo. Đẳng cấp tăng lữ Balamôn vốn có vai trò quan trọng trong các lễ hiến tế, 
là người trung gian giữa tín đồ và thần linh, cùng với nó là uy thế và đặc quyền của 
đẳng cấp này với các đẳng cấp khác trong xã hội; khuynh hướng Bhakti chủ trương cần 
có và chỉ cần có một lòng sùng kính tại tâm, mong muốn thiết lập một tình yêu trực tiếp 
và nguyên sơ giữa tín đồ và thần thánh, không cần đến một thế lực trung gian nào. Như 
vậy, giáo lý Bhakti đã phủ nhận vai trò trung gian của tăng lữ Balamôn, từ chối một tôn 
giáo - tăng lữ và thay vào đó là một tôn giáo- trái tim. Đây cũng chính là tư tưởng chung 
của các phong trào tôn giáo cải cách khác. Sự biến đổi này đã nhấn mạnh vai trò, giá trị 
của bản thân tín đồ trước thần thánh và trong tôn giáo, bởi vậy, nó đã tấn công trực tiếp, 
tích cực vào chế độ đẳng cấp tồn tại dai dẳng ở Ấn Độ. 
2.4. Sự đơn giản hoá tối đa về mặt lễ thức 
 Cúng tế, lễ nghi vốn chiếm vị trí quan trọng trong Hinđu giáo. Điều đó được quy 
định rõ trong các bộ kinh cổ điển. Về sau, việc cúng tế được đơn giản hoá bớt đi - các lễ 
hiến tế súc vật được thay thế bằng những hiện vật, bên cạnh những đền đài đồ sộ đã xuất 
hiện những điện thờ trong gia đình. Tuy nhiên, về cơ bản lễ thức Hinđu giáo vẫn rất cầu 
kỳ, phức tạp. 
 Phong trào Bhakti dưới thời người Hồi cai trị chủ trương đơn giản hóa tối đa các 
nghi lễ tôn giáo cũng như hình thức cúng tế. Không cần đến những lễ hiến tế tốn kém, 
không cần những đền đài kì vĩ, thậm chí không cần bất cứ hình tượng nào, chỉ cần “xây 
dựng giáo đường trong chính trái tim”, một lễ vật đơn giản nhưng với tất cả tấm lòng 
thành. Có thể nói, đây là đỉnh cao trong sự thể hiện đơn giản hóa và khuynh hướng chống 
tệ hình thức của đạo Hinđu. Sự biến đổi này hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh, khả năng 
của quần chúng nhân dân lao động, đặc biệt dưới ách thống trị của người Hồi giáo. 
2.5. Kinh thánh phương ngữ thay thế cho những bộ kinh Sanxcrit cổ điển 
 Nếu những bộ kinh cổ điển Hinđu giáo là kết quả của sự tìm tòi không mệt mỏi 
qua nhiều thế hệ các thánh nhân, đạo sư, đạo sĩ và thuộc độc quyền của ngôn ngữ 
Sanxcrit thì kinh sách quan trọng của khuynh hướng Bhakti chính là sáng tác của những 
đại biểu phong trào và được thể hiện bằng phương ngữ gần gũi, dễ hiểu. 
 Các bộ kinh cổ điển Hinđu giáo thực tế được lưu hành rất hạn chế trong số ít người 
thuộc đẳng cấp Balamôn chuyên tổ chức tế lễ. Một mặt, do đặc quyền của họ, mặt khác 
do sự không phổ biến của tiếng Sanxcrit. Khuynh hướng Bhakti cùng với sự tự do, cởi mở 
trong tinh thần là sự phóng khoáng trong cách thể hiện. Thời kỳ này đã nở rộ phong phú 
trong bản sắc của rất nhiều ngôn ngữ địa phương: Tamin, Kannada, Têlugu, Malayalam 
 75
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
(miền Nam), Bengali, Assam, Oriya (miền Đông), Hinđi (miền Trung), Marathi, Gujarati, 
Sinđi(miền Tây). Thơ văn phương ngữ khác biệt rõ ràng so với những kinh sách cổ điển 
Sanxcrit. Nó hoàn toàn tự phát và thấm nhuần một tình cảm chân thật, còn kinh sách 
Sanxcrit mang tính gò bó, bắt buộc. Mặt khác, cũng tiếp nối truyền thống Rig Vêđa ca 
ngợi thần thánh với hình thức tụng thi, nhưng những cầu mong của cải cùng sức mạnh vật 
chất đã được thay thế bằng những khát vọng tâm linh. Chủ đề của những tác phẩm tôn 
giáo thời kỳ này chính là tình cảm tin yêu, sùng kính, dâng hiến của tín đồ đối với vị thần 
mà họ lựa chọn. Bên cạnh sáng tác, các tín đồ Hinđu giáo thời kỳ này còn dịch những bộ 
kinh cổ điển sang tiếng địa phương. 
 Nhờ sáng tác bằng phương ngữ với nội dung dễ hiểu nên kinh sách Hinđu giáo 
thời kỳ Hồi cai trị dễ dàng được lưu truyền sâu rộng trong quần chúng, tạo sức chống đỡ 
hiệu quả đối với những đòn tấn công của Hồi giáo. 
 Bên cạnh việc tự thích nghi bằng củng cố cá tính của mình với những nét biến đổi 
như trên, Hinđu giáo còn chọn lọc thu hút những yếu tố văn hoá mới từ Hồi giáo. 
2.6. Sự tiếp thu thuyết độc thần quyết liệt từ Hồi giáo 
 Hồi giáo là tôn giáo độc thần tuyệt đối. Vị thần duy nhất mà đạo Hồi tôn thờ là 
thánh Ala. Hoàn toàn khác biệt, Hinđu giáo vốn thờ đa thần. Như vậy, hai tôn giáo này có 
quan niệm và niềm tin khác nhau đối với thần thánh. Điều đó dẫn đến thái độ thù địch, sự 
đàn áp khốc liệt, ý muốn tiêu diệt triệt để của những kẻ thống trị Hồi giáo đối với Hinđu 
giáo và những tôn giáo bản địa khác. Mặc dù vậy, việc chung sống với nhau lâu dài trong 
cùng môi trường đã đẫn tới sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai tôn giáo. Chính J.Nêru đã 
từng nhận định “Thuyết độc thần quyết liệt của Hồi giáo đã có ảnh hưởng đến Hinđu giáo 
và thái độ đa thần mơ hồ của người Hinđu cũng tác động đến người Hồi giáo ở Ấn 
Độ”(4). Cùng với thuyết nhất nguyên tuyệt đối vốn là cơ sở của phần lớn triết học Ấn Độ, 
mỗi tín đồ Hinđu giáo có thể tự lựa chọn vị thần sùng tín của mình với những hình thức 
thờ phụng phổ biến và giản đơn hơn. Như vậy, rõ ràng thuyết độc thần của Hồi giáo đã có 
mặt trong Hinđu giáo thời kỳ này. 
2.7. Sự tiếp thu tư tưởng dân chủ 
 Tư tưởng dân chủ, bình đẳng của lý thuyết Hồi giáo vốn hoàn toàn khác biệt với 
chế độ đẳng cấp đã bị “cốt hoá” ở Ấn Độ. Tư tưởng đó đã có mặt trong sự phát triển của 
Hinđu giáo. Cụ thể, được thể hiện trong khuynh hướng Bhakti với sự phát ngôn của 
nhiều đại biểu tôn giáo. Hầu hết họ đều chống lại hệ thống xã hội lúc bấy giờ, chống lại 
chế độ đẳng cấp, muốn phá huỷ mọi trật tự của nó. Cần phải thấy được đây là nét biến 
đổi linh hoạt và rất “cách mạng” của Hinđu giáo. 
 Tóm lại, dưới gót giầy xâm lược và sự cai trị của những vương triều ngoại nhân, với 
chính sách tôn giáo tàn bạo và cuồng tín, với sự xâm nhập, tấn công của Hồi giáo, thực tế, 
văn hoá và tôn giáo Ấn Độ đã có sự biến đổi lớn lao. Văn hoá cổ điển chìm lắng xuống bề 
sâu, Phật giáo cáo chung, đạo Jaina khó lòng tồn tại. Chỉ riêng Hinđu giáo vẫn trụ lại và 
tiếp tục phát triển. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Hinđu giáo đã có những biến đổi uyển 
 76
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
chuyển theo hai khuynh hướng cơ bản: Một mặt nó nhấn mạnh chủ nghĩa sùng tín, suy 
tôn tôn giáo tình yêu, rộng mở hơn trong con đường giải thoát, đơn giản hoá mặt nghi lễ, 
khước từ vai trò trung gian của tăng lữ Balamôn, địa phương hoá ngôn ngữ thể hiện, mặt 
khác, nó đã chọn lọc, tiếp thu những yếu tố văn hoá mới từ Hồi giáo - đó là thuyết độc 
thần không hình tượng, tư tưởng dân chủ, bình đẳng của đạo Hồi. Với những biến đổi, 
Hinđu giáo không chỉ khẳng định được sức sống mãnh liệt của mình mà còn thể hiện một 
tinh thần khoan dung tôn giáo - tinh thần đáng được gìn giữ trong mọi thời đại. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Alaiep. L.E, Antônôva.K. AxraphianK.D, “Lịch sử Ấn Độ trung đại”(3 tập), NXB 
 Matxcơva 1968 (PGS. Đặng Đức An, P.GS Đinh Ngọc Bảo dịch - bản lưu tại 
 ĐHSPHN), Tr. 502. 
[2] Antônôva. K, Bôngatêvin.G, “Lịch sử Ấn Độ cổ đại và trung đại”, NXB Tiến Bộ, 
 Matxcơva 1979 (Nguyễn Việt dịch, bản lưu tại thư viện ĐHSPHN), Tr. 455. 
[3] Durant. W, “Lịch sử văn minh Ấn Độ”, NXB Văn học Hà Nội, 1997(Nguyễn Hiến 
 Lê dịch), Tr. 200. 
[4] Nêru. J., “Phát hiện Ấn Độ” (tập 2), NXB Văn hoá, 1990, Tr.37. 
[5] Renuie. L., “Đạo Hinđu”, Pari, 1961(Ban Đông Nam Á dịch). 
[6] Thedore, Ludwig. M., “Những con đường tâm linh phương Đông”, Phần I, NXB 
 Văn hoá thông tin, 2001. 
[7] Lưu Đức Trung, Phan Thu Hiền (Giới thiệu, tuyển chọn, trích dịch), “Hợp tuyển văn 
 học Ấn Độ”, NXB Giáo dục, 2002. 
[8] Helmolt. D. R. H. F., “The world History”, Wlliam Heinemam, 1904. 
[9] Thapar. R., “A history of India”, Benguin Books, 1996. 
THE CHANGES OF HINDU IN INDIA UNDER DELI’S TIME AND EMPIRE 
 OF MOGON 
 Nguyen Thi Van1 
 1Faculty of Social Sciences, Hong Duc University 
 ABTRACT 
 Hinduism is the predominant religion of the Indian subcontinent During the 
Muslim conquests, Islam gained many converts on the Indian sub-continent 
primarily from Hinduism or Buddhism; the two dominant local religions. Within 
this setting, Hinduism underwent profound changes. However, Muslim and Hindu 
conflict still exists in India fueled by a history of regional politics, nationalism, 
continued conflict. The paper aims at investigating the change of Hindu in India 
under the Deli’s time and Empire of Mogon. 
 77

File đính kèm:

  • pdfsu_bien_doi_cua_hindu_giao_o_an_do_duoi_thoi_vuong_trieu_hoi.pdf