Sinh hoạt tín ngưỡng và một số khía cạnh kinh tế (Qua khảo cứu tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng
Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng Đồng bằng
Bắc Bộ là một loại hình tín ngưỡng dân gian được ra đời từ rất
sớm trong lịch sử. Cùng với thời gian, tín ngưỡng thờ Mẫu đã
có sự biến đổi để có thể phản ánh được sự thay đổi của xã hội
Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như trước
thế kỷ XVI, tín ngưỡng thờ Mẫu gắn nhiều với nền kinh tế nông
nghiệp thì sau thế kỷ XVI đã dần chuyển sang phản ánh nền
kinh tế hàng hóa với vai trò mới nổi của các thương nhân (qua
hình ảnh của Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Tam Tòa Thánh Mẫu).
Cho đến nay, tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn tiếp tục phát triển trong
mối quan hệ mật thiết với hoạt động thương mại. Hàng loạt các
đền phủ thờ Mẫu được mọc lên trên con đường buôn bán Bắc -
Nam với sự tham gia của hầu hết các con nhang, đệ tử là những
người làm ăn buôn bán. Khi tham gia vào các sinh hoạt tín
ngưỡng thờ Mẫu, các con nhang đệ tử đã tìm thấy cho mình chỗ
dựa về tinh thần để có thể tự tin tham gia các hoạt động kinh tế.
Đồng thời, bản thân các cộng đồng dân cư - nơi đặt các đền,
phủ Mẫu hoặc các bản hội với vai trò trung tâm là các đồng
thầy - cũng chịu sự tác động mạnh mẽ trên phương diện đời
sống kinh tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sinh hoạt tín ngưỡng và một số khía cạnh kinh tế (Qua khảo cứu tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng
thực dụng cao của tín đồ thì phải chăng niềm tin về mối quan hệ mật thiết giữa tín ngưỡng thờ Mẫu và hoạt động buôn bán, kinh doanh đã tạo nên điều đó! Như vậy, với tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu, niềm tin của họ vào thần linh Tứ phủ đóng vai trò rất quan trọng giúp họ có thể yên tâm, tự tin để thực hiện các hoạt động kinh tế của mình trong đời sống thực. Và tất nhiên, trong thực tế thì kết quả cuối cùng phụ thuộc rất nhiều vào chính hành động của bản thân họ, còn lộc Thánh (sự phù hộ, vật thiêng) chỉ là chỗ dựa về tinh thần, là “vốn ban đầu”15 mà Thánh ban mà thôi. 4. Tín ngưỡng thờ Mẫu và kinh tế dưới khía cạnh cộng đồng. Tín ngưỡng thờ Mẫu không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà nó còn là một hiện tượng xã hội với những sinh hoạt tín ngưỡng, như: nghi lễ thờ cúng, cơ sở thờ tự, cộng đồng tín đồ trong sự tác động qua lại với các hiện tượng xã hội khác. Với sự hồi sinh và phát triển mạnh mẽ của tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay thì chính những sinh hoạt tín ngưỡng này đã tác động mạnh mẽ tới xã hội, trong đó không thể không kể đến những lợi ích về kinh tế mà các cộng đồng cư dân sống quanh các cơ sở thờ Mẫu được hưởng lợi, như: Làng Cổ Mễ, Từ Sơn, Bắc Ninh; Phủ Giầy ở Nam Định; Đền Sòng Sơn ở Thanh Hóa; Đền ông Hoàng Mười ở Hà Tĩnh; Đền Hoàng Bảy ở Lào Cai; Phủ Tây Hồ ở Hà Nội; Đền Mẫu Thượng Ngàn ở Yên Bái; Đền Chúa Thác Bờ ở Hòa Bình, v.v Theo thống kê thì lượng khách hành hương về Phủ Giầy, Nam Định vào khoảng 1,5 triệu khách/năm16 với trên dưới 1.000 canh hầu trình và hầu giá tại Phủ Giầy/năm17; Phủ Tây Hồ, Hà Nội vào những ngày đầu xuân năm mới trung bình có hàng vạn khách về lễ Mẫu mỗi Nguyễn Hữu Thụ. Sinh hoạt tín ngưỡng và một số khía cạnh kinh tế 123 ngày18. Còn theo thống kê của Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh, có những thời điểm số người về hành lễ tại đền Bà Chúa Kho lên đến 200.000 người/ngày. Với một lượng người lớn như vậy đổ về một cơ sở tín ngưỡng đã giúp cho cộng đồng cư dân ở đây có cơ hội tìm kiếm việc làm và tăng thêm thu nhập. Một loạt các dịch vụ của người dân được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu của những người đi lễ, như: sản xuất và bán hương, hoa, vàng mã, viết sớ, sắp lễ, cúng khấn, dịch vụ ăn uống, ngủ nghỉ, trông giữ xe, quản lý và tu bổ cơ sở thờ tự,. Thậm chí có nơi Ban quản lý cơ sở tín ngưỡng phải tiến hành phân bổ “chỉ tiêu” người được phép làm dịch vụ cúng thuê trong di tích cho từng gia đình trong làng hay tiến hành bốc thăm, đấu giá những vị trí bán hàng trong khuôn viên của điện thờ để tránh tình trạng tranh chấp lẫn nhau. Bên cạnh sự được lợi của cộng đồng cư dân tại chỗ thì bản thân những cơ sở tín ngưỡng cũng không ngừng tăng thêm nguồn thu từ tiền giọt dầu, công đức mà người đi lễ dâng lên. Một số ông đồng bà đồng cho biết, nếu trước đây việc hành hương về các đền, phủ lớn của tín ngưỡng thờ Mẫu thường không phải đăng ký trước và với số tiền giọt dầu cúng cho bản đền là không nhiều (khoảng 50.000đ- 100.000đ), thì hiện nay, để có thể thực hiện được các vấn hầu ở những đền phủ lớn này, các ông đồng, bà đồng thường phải đăng ký trước với bản đền và phải bỏ ra từ 300.000đ đến 500.000đ với những canh hầu giá, còn hầu trình trầu thì chỉ từ 100.000 - 150.000đ tiền giọt dầu19, chưa kể các tiền dịch vụ khác như vàng mã, ăn uống, ngủ nghỉ,.... Bên cạnh đó, không thể không nói đến khoản tiền công đức mà các đồng thầy dâng cúng vào điện thờ sau khi làm lễ (số tiền này nhiều hay ít sẽ phụ thuộc vào quy mô của buổi lễ lớn hay nhỏ và khả năng kinh tế của tín đồ mạnh hay yếu). Đó chính là lý do mà rất nhiều các đền, phủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay đã được trùng tu và sửa chữa với một hệ thống dịch vụ tâm linh hết sức chuyên nghiệp được hình thành để có thể thu hút được nhiều hơn nữa tín đồ hành hương về lễ Mẫu. Theo đó, các nhà đền có thể cung cấp thầy cúng, cung văn, hầu dâng (của nhà đền), vàng mã, trang phục lễ, các loại lễ vật cũng như 124 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019 các dụng cụ khác dùng trong nghi lễ lên đồng và các nghi lễ khác của tín ngưỡng thờ Mẫu. Thậm chí một số nhà đền còn cung cấp cả dịch vụ đổi tiền lẻ và dịch vụ ăn uống, ngủ nghỉ cho tín đồ về hành lễ. Rõ ràng là sự gia tăng các sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu đã tạo ra một lượng việc làm và thu nhập đáng kể cho cộng đồng cư dân nơi có cơ sở thờ tự. Như Trần Đình Luyện đã khẳng định khi nghiên cứu về đền Bà Chúa Kho: việc có nhiều người về đền Bà Chúa Kho cúng lễ đã giúp cho các dịch vụ hỗ trợ của cư dân địa phương phát triển mạnh mẽ với sự tham gia của hàng nghìn người dân làng Cổ Mễ và xã Vũ Ninh. Khu di tích được bảo vệ, tu bổ, tôn tạo ngày càng khang trang, làng xóm đổi mới, đời sống người dân được nâng cao nhanh chóng20. Những sinh hoạt tín ngưỡng không chỉ đem lại nguồn lợi kinh tế cho cộng đồng cư dân tại chỗ mà còn góp phần tạo lên một mạng lưới liên kết về kinh tế giữa những người trong cùng một bản hội. Bản hội (bản phủ, bản đền) là một nhóm người có cùng niềm tin đối với tín ngưỡng thờ Mẫu mà trung tâm của sự liên kết giữa họ với nhau là Đồng Thầy. Mỗi đồng thầy sẽ tìm cách mở rộng càng nhiều càng tốt số lượng các con nhang, đệ tử để bản hội của mình lớn mạnh. Việc bản hội ngày càng lớn mạnh không chỉ đem lại nhiều lợi ích về kinh tế cho đồng thầy mà ngay cả con nhang đệ tử trong bản hội cũng được hưởng lợi nhất định. Nguyễn Ngọc Mai trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng rất nhiều người tham gia vào bản hội của một đồng thầy nào đó thì bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu về tâm linh họ còn được hưởng lợi từ rất nhiều sự liên kết giữa họ với đồng thầy, giữa họ với các con nhang đệ tử khác về mặt kinh tế21. Như Nguyễn Kim Hiền nhận xét, ngoài việc tìm kiếm niềm tin nơi thần cho cá nhân, bản hội còn có thể coi là một liên minh làm ăn tin cậy22. Để chuẩn bị cho buổi lễ lên đồng thì các ông đồng, bà đồng phải lo bầy biện, trang trí ban thờ, như: hoa quả, bánh kẹo, rượu, bia, thuốc lá, nước,; đồ vàng mã để dâng cúng các vị thần linh; quần áo trang phục các giá hầu; mời cung văn, thầy cúng, hầu dâng... Thông thường, các ông đồng, bà đồng sẽ có trong tay một số nguồn cung cấp có uy tín về chất lượng, giá cả và dịch vụ mà thầy đồng thấy phù hợp với mình. Tuy nhiên, theo quan sát của tác giả thì hầu hết những nhà cung Nguyễn Hữu Thụ. Sinh hoạt tín ngưỡng và một số khía cạnh kinh tế 125 cấp ấy đều là con nhang, đệ tử của đồng thầy. Đó chính là sự ưu tiên của đồng thầy cho người trong bản hội của mình trước khi có sự lựa chọn ở bên ngoài. Ngay cả với đội ngũ hầu dâng, cung văn, thầy cúng cũng vậy, mặc dù về thực chất, họ có thể thể nhận bất kỳ lời đề nghị tham gia buổi lễ của đồng thầy nào - miễn là họ thấy có lợi cho họ. Nhưng thường thì cung văn, hầu dâng và thầy cúng sẽ luôn ưu tiên một đồng thầy hay bản điện nào đó mà họ cho rằng họ được ăn lộc ở đó, hoặc cũng có thể đó chính là nơi đã trình đồng cho họ. Sự ưu tiên này thể hiện ở chỗ, họ sẽ không đặt nặng vấn đề tiền cọc hay tiền lộc mà họ nhận được trong buổi lễ đó nhiều hay ít (trong sự so sánh với các buổi lễ của các đồng thầy hay điện thờ khác mà họ tham gia) hoặc họ cũng có thể hủy lịch với những nơi khác mà họ đã nhận lời nếu buổi lễ trùng lịch với đồng thầy hay bản điện chính của họ. Những lợi ích về kinh tế của con nhang đệ tử không chỉ dừng lại ở việc là nguồn cung cấp đồ lễ, hàng hóa cho đồng thầy, mà còn thể hiện ở việc mở rộng mối quan hệ kinh tế, xã hội của bản thân với những người trong cùng bản hội. Có thể thấy, chính niềm tin vào thần linh Tứ Phủ cùng sự tin tưởng vào quyền năng của đồng thầy đã giúp họ có một sự tin tưởng lẫn nhau trong nhiều việc, trong đó có những giao dịch kinh tế, làm ăn. Tuy nhiên, khi được hỏi thì phần lớn những tín đồ được hưởng lợi về kinh tế khi tham gia vào bản hội đều giải thích rằng sự ổn định và phát triển về kinh tế của họ không phải là tình cờ, ngẫu nhiên mà đó là do sự phù hộ của thần linh mà người trung gian đem đến sự phù hộ ấy chính là đồng thầy mà họ đang theo. Điều đó đã phần nào tạo thêm động lực để họ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động của bản hội khi đồng thầy yêu cầu. 5. Trong giai đoạn hiện nay, với sự biến đổi mạnh mẽ của xã hội Việt Nam nói riêng (đặc biệt về kinh tế, văn hóa, xã hội), tình hình thế giới nói chung, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ và những sinh hoạt tín ngưỡng của nó không những không bị mất đi mà ngày càng phát triển mạnh mẽ. Những tác động của nó trên bình diện cá nhân và cộng đồng đã đem lại những giá trị tích cực nhất định, nhưng cũng không thể tránh khỏi những tác động tiêu cực, như: 126 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019 tệ nạn mê tín dị đoan tăng lên, kèm theo nó là sự lãng phí về thời gian, tiền bạc của cá nhân và xã hội; sự phục hồi quá nhanh của tín ngưỡng Mẫu đã phần nào dẫn đến sự lúng túng và bất cập trong quản lý nhà nước về sinh hoạt tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng. Để có thể đem lại sự lành mạnh trong các sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu thì không chỉ đòi hỏi cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp luật về tôn giáo mà còn phải hoàn thiện các hệ thống pháp luật khác, như: kinh tế, đất đai, ngân hàng/. CHÚ THÍCH: 1 Đỗ Trinh Huệ (2000), Văn hóa - Tín ngưỡng gia đình Việt Nam qua nhãn quan học giả L. CARDIERE, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 79-81. 2 Hương Nguyên (2004), “Quanh tục thờ Thánh Mẫu”, Di sản văn hóa (7), tr. 74- 77. 3 Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 387. 4 Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 388. 5 Nhiều tác giả (2008), Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 300 6 Theo GS. Ngô Đức Thịnh, cội nguồn ban đầu của Bà Chúa Kho là nữ thần Mẹ lúa, là biểu tượng của một nền kinh tế nông nghiệp. Trong quá trình vận động của xã hội Việt Nam mà cốt lõi của nó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần chống giặc ngoại xâm đã dần dần thâm nhập, làm biến dạng nguồn cội ban đầu và trở thành Bà Chúa Kho Lương gắn với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược (Ngô Đức Thịnh (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 150-156). 7 https://news.zing.vn/co-nen-vay-von-den-ba-chua-kho-de-lam-giau 8 9 Theo Toan Ánh, “Tục đốt vàng mã có ban đầu là dùng đồ bạch ngọc (ngọc trắng) để cúng tế. Đời sau vì bạch ngọc đắt và hiếm, nên người ta thay thế bằng tiền, những tiền này sau khi cúng xong đều bỏ đi rất phí tổn. Trước sự phí tổn này, vua Huyền Tôn nhà Đường ra lệnh dùng tiền giấy thay cho tiền thật, những thoi vàng thoi bạc giấy được thay cho vàng bạc thật và hình những đồng tiền vẽ trên giấy được cúng thay cho tiền quan. Đến đời Đường Thế Tôn, quan Từ tế sứ, lo việc tế tự là Vương Dữ, đã cho cúng toàn tiền giấy rồi đốt đi. Về sau thêm tục cúng quần áo mũ và đồ dùng bằng giấy từ đời Ngũ Đại (Toan Ánh (1992), Tín ngưỡng Việt Nam (quyển thượng - quyển hạ), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tr. 416- 417). 10 Nhiều tác giả (2008), Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 310. 11 Ngô Đức Thịnh (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 52. 12 Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, tập 2, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 306. Nguyễn Hữu Thụ. Sinh hoạt tín ngưỡng và một số khía cạnh kinh tế 127 13 Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, tập 2, Sđd, tr. 356. 14 Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, tập 2, Sđd, tr. 95. 15 Nhiều tác giả (2008), Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 301. 16 Báo Điện tử Giadinh.net, Hội Phủ Dầy “hút” hàng nghìn du khách. 17 Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng - Lịch sử và giá trị, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 190. 18 Báo Điện tử VTC, Đi lễ Phủ Tây Hồ phải dâng lễ từ xa. 19 Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng - Lịch sử và giá trị, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 127. 20 Ngô Đức Thịnh (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 159. 21 Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng - Lịch sử và giá trị, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr. 306. 22 Nhiều tác giả (2008), Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 301. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Toan Ánh (1992), Tín ngưỡng Việt Nam (quyển thượng - quyển hạ), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 2. Đỗ Trinh Huệ (2000), Văn hóa-Tín ngưỡng gia đình Việt Nam qua nhãn quan học giả L.CARDIERE, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 3. Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội 4. Hương Nguyên (2004), “Quanh tục thờ Thánh Mẫu”, Di sản văn hóa (7), tr. 74- 77. 5. Nhiều tác giả (2008), Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 6. Ngô Đức Thịnh (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 7. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 8. Ngô Đức Thịnh (2010), Lên đồng, hành trình của thần linh và thân phận, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 9. Ngô Đức Thịnh (2010), Đạo Mẫu Việt Nam, tập 2, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 10. Báo Điện tử Giadinh.net, Hội Phủ Dầy “hút” hàng nghìn du khách 11. Báo Điện tử VTC, Đi lễ Phủ Tây Hồ phải dâng lễ từ xa 12. https://news.zing.vn/co-nen-vay-von-den-ba-chua-kho-de-lam-giau 13. 128 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2019 Abstract RELIGIOUS ACTIVITIES AND ECONOMIC ASPECTS (Research on the Vietnamese’s Mother Goddess worship in the Red River Delta of Vietnam) Nguyen Huu Thu University of Social Sciences and Humanities, VNU. The Mother Goddess worship of the Vietnamese in the Red River Delta is a folk belief that was born early in the history. By the time, the worship of Mother Goddesses has changed to reflect the change of Vietnamese society in different historical periods. Before the sixteenth century, the worship had attached to the agricultural economy. After the 16th century, it gradually reflected the commodity economy with the emerging of traders’ role (through the image of Princess Lieu Hanh and Three Realms). So far, the worship of Mother Goddesses has been developed in close relationship with commercial activities. A series of Mother Goddesses temples were built along the North-South trade road with the participation of businessmen, traders. Believers found their spiritual support to be able to confidently participate in economic activities when participating in the worship activities, the communities who lived around the temples were also influenced (in terms of economic life). Keywords: Red River Delta; belief; Mother Goddess worship; economy; Vietnam.
File đính kèm:
- sinh_hoat_tin_nguong_va_mot_so_khia_canh_kinh_te_qua_khao_cu.pdf