Quy trình kiểm toán trong kiểm toán nội bộ ở Việt Nam
Tóm tắt
Việc hình thành kiểm toán nội bộ (KTNB) trong các DN (DN) trong điều kiện nền kinh tế
thị trường phát triển đa chiều, cạnh tranh gay gắt là một điều cần thiết, để nâng cao tính
hiệu quả của hoạt động quản lý của các DN. Xuất phát từ vai trò của kiểm toán nói chung
và KTNB nói riêng, trong nền kinh tế thị trường, thì việc hoàn thiện KTNB trong các DN
Nhà nước ở nước ta hiện nay là một vấn đề tất yếu cần thiết, để đảm bảo tính trung thực
của báo cáo tài chính cũng như tính tuân thủ, tính hoạt động của DN. Trên cơ sở đó, đưa
ra các kiến nghị, giải pháp về chế độ kế toán, hình thức quản lý và tính hiệu quả của DN.
Đối với Việt Nam, đây là một lĩnh vực mới mẻ nên việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn,
việc nghiên cứu một số vấn đề về quy trình kiểm toán trong KTNB, thông qua đó nêu một
số kiến nghị, giải pháp nhằm hỗ trợ cho các DN kiểm toán hoạch định chính sách và
nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình kiểm tra, kiểm soát trong nền kinh tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quy trình kiểm toán trong kiểm toán nội bộ ở Việt Nam
ng ty phải là nơi tổng hợp và xử lý kết quả kiểm toán cuối cùng. Kết quả kiểm toán từ KTVNB được bố trí tại các đơn vị thành viên thực hiện công việc kiểm toán tại đơn vị phụ trách. - Đây là hình thức đòi hỏi số lượng kiểm toán viên và chi phí kiểm toán lớn, vì vậy hầu hết các DN đã không lựa chọn mô hình này. Một số ít DN lựa chọn theo mô hình này nhưng có điều chỉnh là KTVNB của công ty mẹ sẽ tham gia kiểm toán cùng với KTVNB của công ty con nhằm tiếp kiệm chi phí. Tuy nhiên, bộ máy KTNB vẫn cồng kềnh. - Đại diện cho hình thức này là tổ chức bộ máy KTNB của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam. Tại các công ty con của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, đều có khoảng 2 đến 3 kiểm toán viên dẫn đến chi phí lớn. Đây là lý do khiến các DN Việt Nam áp dụng phổ biến hình thức tập trung hoặc hình thức nửa tập trung, nửa phân tán. - Hình thức nửa tập trung, nửa phân tán: Với hình thức tổ chức này, KTNB được tổ chức tại công ty mẹ và chỉ tổ chức KTNB tại các DN thành viên mà bản thân DN đó cũng là công ty mẹ của nhiều đơn vị thành viên. Hình thức tổ chức này đang được áp dụng tại các DN như Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 154 Việt Nam, Tập đoàn Tài chính Bảo Việt, Với hình thức tổ chức này, hiệu quả hoạt động KTNB đã được nâng cao một bước. 4.2. Quy trình KTNB Với mỗi cuộc kiểm toán hoặc tư vấn, quy trình KTNB được chia thành bốn giai đoạn chính: lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán, báo cáo kết quả kiểm toán và giám sát triển khai kết quả thực hiện khuyến nghị kiểm toán. 4.2.1 Lập kế hoạch kiểm toán Chuẩn mực của IIA yêu cầu các KTVNB phải xây dựng và ghi chép một kế hoạch cho mỗi cuộc kiểm toán hoặc tư vấn, bao gồm: Mục tiêu, phạm vi, thời gian và việc phân bổ nguồn lực. Các KTVNB sẽ lập biên bản ghi nhớ về kế hoạch, để ghi lại các mục tiêu, phạm vi kiểm toán, đánh giá rủi ro và nội dung ưu tiên kiểm toán. Biên bản ghi nhớ cũng là tài liệu quan trọng để trao đổi về mục tiêu, phạm vi kiểm toán và các thông tin quan trọng khác cho các thành viên trong nhóm kiểm toán. 4.2.2 Thực hiện kiểm toán Thông thường, những kiểm soát cơ bản sẽ được tiến hành ở giai đoạn thực hiện đã được xác định ở giai đoạn lập kế hoạch căn cứ vào việc đánh giá tính đầy đủ của thiết kế hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB). Ở giai đoạn thực hiện kiểm toán, các KTVNB tiến hành những thử nghiệm kiểm soát cơ bản đó và ghi chép lại kết quả kiểm toán làm bằng chứng cho việc đánh giá hiệu quả quy trình KSNB. Trước khi thực hiện kiểm toán, các KTVNB xem xét: - Tài liệu kế hoạch kiểm toán để năm rõ mục tiêu, phạm vi, chương trình kiểm toán bao gồm các thủ tục kiểm toán, thời gian và nguồn lực thực hiện kiểm toán. - Các kỳ vọng của Hội đồng quản trị và lãnh đạo DN để phản ảnh thông tin cần thiết, nhằm đạt được mục tiêu kiểm toán. - Các chính sách và quy định pháp lý liên quan đến thông tin cá nhân trước khi thực hiện kiểm toán tư vấn với luật sư của DN hoặc các chuyên gia để làm rõ các quan ngại và thắc mắc có thể nảy sinh khi truy cập thông tin cá nhân. Ngoài ra, trong khi thực hiện kiểm toán, nếu thấy kế hoạch thử nghiệm không được lập đủ chi tiết thì các KTVNB có thể bổ sung các chi tiết thử nghiệm như các tiêu chí cũng như quy mô thử nghiệm, phương pháp chọn mẫu, số lượng mẫu cần thiết để thu thập được thông tin đầy đủ. Nếu các thủ tục thử nghiệm được nêu ở trong chương trình kiểm toán không mang lại được đầy đủ các thông tin để đưa ra kết luận hoặc ý kiến tư vấn, các KTVNB cần điều chỉnh thử nghiệm và tiến hành bổ sung. Mọi điều chỉnh hoặc bổ sung đối với chương trình kiểm toán đều phải được phê duyệt ngay. Để làm căn cứ cho kết quả kiểm toán và kết luận của mình, các KTVNB xác định thông tin, thực hiện phân tích và đánh giá và ghi chép thông tin thông qua việc thực hiện các thủ tục kiểm toán được lập trong chương trình kiểm toán. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 155 Bằng chứng kiểm toán là những thứ kiểm toán viên thu được, thông qua việc thực hiện các thủ tục quan sát, phỏng vấn và điều tra. Bằng chứng kiểm toán được sử dụng để làm căn cứ cho việc đưa ra kết luận và khuyến nghị đối với những phát hiện của kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán có thể được chia thành các nhóm như sau: - Bằng chứng thu được bằng việc quan sát con người, tài sản, sự kiện như là hình ảnh, phim chụp, sơ đồ, biểu đồ, bản đồ, các ghi chép kết quả quan sát. - Bằng chứng có tính chứng thực như các thư từ, biên bản ghi nhớ, thư điện tử, các phản hồi từ các cuộc khảo sát, điều tra và phỏng vấn. Bằng chứng có thể là trả lời trực tiếp hoặc bằng văn bản. - Bằng chứng dưới hình thức tài liệu là loại bằng chứng phổ biến nhất và bao gồm các thông tin được viết lại hoặc được cung cấp bới các phương tiện truyền thông khác. - Bằng chứng phân tích là các phân tích, xác nhận, tổng hợp, so sánh sử dụng thông tin được thu thập từ các nguồn khác nhau. Ví dụ như: Dữ liệu chuẩn của ngành, của các DN tương đương, kết quả của năm trước, quyết toán thuế,... 4.2.3 Báo cáo kết quả kiểm toán Chuẩn mực của IIA yêu cầu Trưởng KTNB phải thực hiện báo cáo định kỳ cho Hội đồng quản trị và lãnh đạo DN. Tần suất và nội dung báo cáo, tùy thuộc vào tầm quan trọng của báo cáo và mức độ cấp thiết của các hành động cần được lãnh đạo và hội đồng quản trị thực hiện. Các KTVNB phải báo cáo kết quả theo các tiêu chí, chất lượng và các yêu cầu về việc phát hành cũng như gửi báo cáo. Ngoài ra, nếu có yêu cầu về việc đưa ra ý kiến tổng thể thì các KTVNB đưa ra các ý kiến tổng thể theo đúng yêu cầu quy định. Quy định về công tác trao đổi và báo cáo kết quả kiểm toán thường được xây dựng và bảo hành, nhằm đảm bảo tính nhất quán và hiệu quả trong việc báo cáo kết quả kiểm toán. Quy định này được xây dựng căn cứ vào chính sách và quy trình của các bên liên quan cũng như kỳ vọng của Hội đồng quản trị và lãnh đạo DN về các báo cáo kiểm toán. Các KTVNB có thể xem xét quy trình và chính sách KTNB, để xác định các mẫu biểu nên sử dụng. Ngoài ra, các KTVNB cũng cần xem xét cả hướng dẫn về văn phòng của DN, trước khi soạn thảo các văn bản trao đổi có thể trình bày kết quả cuối cùng phù hợp với văn phong được DN chấp nhận. Nội dung chi tiết của quy định về trao đổi thông tin và báo cáo kết quả tùy thuộc vào bản chất của từng DN và mức độ phức tạp của công tác KTNB, nhưng thông thường sẽ bao gồm hướng dẫn liên quan đến trao đổi và báo cáo về: - Thông tin, quan sát và kết quả kiểm toán. - Thông tin giữa kỳ và cuối kỳ. - Theo dõi và quan sát. - Các vi phạm pháp luật. - Thông tin nhạy cảm. - Thông tin với các bên liên quan bên ngoài DN. Giám sát triển khai kết quả, thực hiện khuyến nghị kiểm toán Khi kết thúc cuộc kiểm toán, các phát hiện và khuyến nghị cải tiến phải được trao đổi và báo cáo đến các cấp có liên quan của DN để có biện pháp khắc phục, sửa chữa sai sót kịp thời. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 156 Giám sát triển khai kết quả thực hiện khuyến nghị kiểm toán là hoạt động các KTVNB kiểm tra xem các biện pháp sửa chữa, khắc phục sai sót đã được thực hiện chưa. Chuẩn mực yêu cầu Trưởng KTNB phải thiết lập và duy trì một hệ thống kiểm soát về việc chuẩn bị giám sát và công tác giám sát kết quả triển khai khuyến nghị đã được báo cáo cho lãnh đạo DN. Quy trình giám sát có thể phức tạp hoặc đơn giản tùy thuộc vào một số các yếu tố bao gồm quy mô và mức độ phức tạp của DN, cũng như việc sử dụng phần mềm theo dõi giám sát. Khi xây dựng quy trình này, Trưởng KTNB cân nhắc những vấn đề sau: - Mức độ tự động và chi tiết. - Các loại phát hiện cần giám sát (cụ thể là, tất cả hay là chỉ có những phát hiện có rủi ro cao). - Cách thức và tần suất xác định tình trạng của các hành động/biện pháp khắc phục đang triển khai. - Khi nào KTNB xác nhận một cách độc lập tính hiệu quả của những biện pháp khắc phục. - Tần suất, thể loại và mức độ báo cáo được thực hiện. 4.3.Ưu điểm và hạn chế của hoạt động KTNB 4.3.1.Ưu điểm Sau 20 năm hình thành và phát triển, hoạt động KTNB trong DN Việt Nam, đã thể hiện được sự cần thiết trong công tác quản lý DN. KTNB với vai trò kiểm tra, kiểm soát độc lập trong nội bộ, phục vụ cho quản lý. Tổ chức bộ máy KTNB đã vận dụng một cách linh hoạt các mô hình tổ chức bộ máy KTNB trên thế giới. Mô hình tổ chức KTNB đa dạng, tùy thuộc vào quy mô và yêu cầu cụ thể của mỗi đơn vị. Điều này đã tạo điều kiện cho KTNB phát triển, không những giúp đơn vị xem xét, đánh giá về tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của các hoạt động (kể cả hoạt động KSNB trong đơn vị), mà còn đề xuất các giải pháp nâng cao, cải thiện tình hình hoạt động đơn vị. 4.3.2.Hạn chế Bên cạnh những ưu điểm, tổ chức bộ máy KTNB trong các DN Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế sau: Thứ nhất, do các quy định pháp lý về tổ chức KTNB không mang tính bắt buộc và cũng không quy định một cách rõ ràng, hoặc không xác định rõ vị trí tổ chức cho bộ máy KTNB trong DN. Do đó, trong các DN có tổ chức KTNB chủ yếu tập trung vào các tổng công ty hoặc tập đoàn kinh tế nhà nước. Trong các DN này, bộ máy KTNB cũng được tổ chức theo nhiều mô hình rất khác nhau. Tại một số DN, bộ phận KTNB tổ chức thành một bộ phận chức năng độc lập trực thuộc Tổng giám đốc; Ủy ban kiểm soát nhưng trong một số DN khác KTNB lại được tổ chức thành một tổ hay một bộ phận (nhỏ) nằm trong phòng kế toán tài chính. Bộ phận kế toán thực hiện chức năng xử lý và cung cấp thông tin, đồng thời cũng thực hiện chức năng kiểm tra kế toán. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 157 Thông tin cung cấp cho các đối tượng sử dụng là các thông tin tài chính đã được kiểm tra. Việc đặt bộ phận KTNB nằm trong bộ phận kế toán (người phụ trách KTNB là bán chuyên trách) sẽ ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan của kiểm toán và dẫn tới những bất cập trong tổ chức, điều hành. Thứ hai, tổ chức bộ máy KTNB trong DN cũng chưa được quy định hay hướng dẫn khuôn mẫu, hình thức tổ chức phù hợp. Thực tiễn các DN Việt Nam tự mày mò xác định hình thức tổ chức bộ máy KTNB, phù hợp với đặc thù đơn vị. Chẳng hạn như, tổ chức bộ máy KTNB theo hình thức tập trung tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông chưa phù hợp với quy mô. 4.4. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác KTNB tại Việt Nam 4.4.1.Về phía Nhà nước Một là, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về KTNB. Hệ thống văn bản pháp lý về KTNB cần quy định một cách rõ ràng, xác định vị trí tổ chức cho bộ máy KTNB trong các DN. Các văn bản về KTNB do Bộ Tài chính ban hành, cần phải làm tăng tính hiệu lực trong thực thi. Thay vì những quy định mang tính định hướng, gợi mở hay là hành lang pháp lý chung cho loại hình KTNB trong DN, những quy định này cần hướng dẫn cụ thể tổ chức KTNB trong DN. Hiện nay, Dự thảo Nghị định KTNB đã có những quy định mới khá chặt chẽ về KTNB như: Xác định rõ một số loại hình DN bắt buộc phải có KTNB, trách nhiệm báo cáo của người đứng đầu bộ phận này. Tuy nhiên, vẫn chưa có những hướng dẫn cụ thể, nhằm hướng hoạt động KTNB theo một khuôn mẫu nhất định. Hai là, hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy KTNB. Cần ban hành các mô hình mẫu về tổ chức KTNB trong DN. Mô hình tổ chức bộ máy KTNB có thể thay đổi theo hướng hoàn thiện hơn về tính độc lập của bộ phận này bằng mô hình trực thuộc lãnh đạo cao nhất trong DN, đảm bảo thực hiện tốt các chức năng của bộ phận KTNB. 4.4.2. Về phía DN Thứ nhất, khi tổ chức KTNB trong các đơn vị cần bắt đầu từ việc xây dựng Điều lệ KTNB. “Điều lệ KTNB là một bản tài liệu chính thức trong đó quy định về mục đích, quyền lợi, trách nhiệm của KTNB. Điều lệ KTNB thiết lập vị trí hoạt động của KTNB trong tổ chức, bao gồm cả chức năng báo cáo, quyền tiếp cận tài liệu, con người và các tài sản của DN, đồng thời đưa ra các phạm vi kiểm toán” (HM Treasury, 2011, tr.12). Tùy thuộc vào mỗi một tổ chức, Điều lệ KTNB sẽ khác nhau nhưng phải bao gồm mục đích, quyền hạn, trách nhiệm của hoạt động KTNB. Điều lệ KTNB cũng đòi hỏi phải bao gồm được các thông tin về nhiệm vụ công việc giữa chủ nhiệm kiểm toán với các KTVNB, phải xác định được những đòi hỏi về tính đảm bảo và chức năng tư vấn của KTNB cũng như trình độ, kỹ năng kiểm toán. Điều lệ kiểm toán cũng phải quy định về đạo đức kiểm toán và các Chuẩn mực KTNB cần phải tuân theo. Thứ hai, DN cần tích cực tham gia các hội thảo, hội nghị về lĩnh vực kế toán - kiểm toán nói chung và KTNB nói riêng; Tích cực đóng góp ý kiến, thảo luận về các vấn đề có n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 158 liên quan đến KTNB nói chung và tổ chức bộ máy KTNB nói riêng, nhằm góp phần vào quá trình phát triển hoạt động KTNB trong DN. Thứ ba, DN cần thực hiện tuyển dụng và đào tạo KTV nội bộ đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu kiểm toán trong điều kiện phát triển CNTT cũng như tính phức tạp của các giao dịch kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động KTNB tại Việt Nam đang trong giai đoạn mới phát triển, hệ thống quản lý chưa đồng bộ, chất lượng hoạt động còn thấp chưa tương xứng với yêu cầu. Do vậy, hoàn thiện tổ chức bộ máy KTNB là vấn đề cần được quan tâm một cách thích đáng trong giai đoạn hiện nay. Kết luận Cùng với sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, kiểm toán đã trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của các DN. Tuy mới xuất hiện ở nước ta một quãng thời gian không lâu, song kiểm toán cũng đã có được một địa vị pháp lý vững chắc, được Nhà nước ta bảo hộ, tạo điều kiện cho hoạt động kiểm toán phát triển. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, các DN phải tự vươn lên bằng chính sức lực của bản thân mình, KTNB giúp cho các nhà quản trị có đầy đủ các thông tin chính xác về tình hình hoạt động của DN mà từ đó ra các quyết định quản lý, đảm bảo kinh doanh một cách có lãi. Sự phát triển của KTNB diễn ra rộng khắp, xuất phát từ quá trình hoạt động của các bộ phận KTNB tại từng DN và tổ chức chính phủ. Những hoạt động này là cơ sở cho sự thành công của các tổ chức đó. Sự tiến triển trong tương lai của KTNB cũng sẽ lớn hơn qua những nỗ lực nghề nghiệp, trên một phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên, về cơ bản, thành công của KTNB bắt nguồn từ những kết quả trong các hoạt động cụ thể của DN, các tổ chức. ----------------------------------- Tài liệu tham khảo 1. Tập đoàn Bảo Việt (2017), KTNB thực hiện đảm bảo Báo cáo Tích hợp và Báo cáo Phát triển bền vững, Tạp chí Tài chính; 2. Ngọc Nhi (2016), Sẽ hướng KTNB theo chuẩn mực quốc tế, Đầu tư Chứng khoán; 3. Thủy Ngọc (2017), KTNB: Áp lực chuyển dịch, Nhịp cầu Đầu tư. 4. Bộ Tài chính Việt Nam (2016), Dự Thảo Nghị định KTNB; 5. Vũ Thùy Linh (2014), Hoàn thiện quá trình và tổ chức bộ máy KTNB trong các Ngân hàng thương mại Nhà nước Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội; -----------------------------------
File đính kèm:
- quy_trinh_kiem_toan_trong_kiem_toan_noi_bo_o_viet_nam.pdf