Quản lý, bảo tồn di sản văn hóa và sự kết nối, phát triển du lịch Việt Nam – Asean bền vững trong thời đại số
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra những nguy cơ,
thách thách đối với tài nguyên DSVH cũng như công tác quản
lý, bảo tồn DSVH của Việt Nam và ASEAN, mối quan hệ biện
chứng giữa quản lý, bảo tồn di sản văn hóa (DSVH) và phát
triển du lịch bền vững; từ đó xây dựng một số giải pháp kết nối
DSVH, phát triển du lịch ASEAN bền vững trong thời đại số.
Với các phương pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, nghiên
cứu đã chỉ ra được trong thời đại số và hội nhập quốc tế, tài
nguyên DSVH và công tác quản lý, bảo tồn DSVH của Việt
Nam, ASEAN đứng trước nhiều tác động lớn. Do vậy, cần bằng
mối quan hệ giữa quản lý, bảo tồn DSVH với phát triển du lịch
có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển ngành Di sản
và Du lịch. Việc kết nối DSVH, phát triển du lịch ASEAN được
coi là giải pháp hữu hiệu cho sự thống nhất chung và sự phát
triển phồn thịnh của khu vực
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý, bảo tồn di sản văn hóa và sự kết nối, phát triển du lịch Việt Nam – Asean bền vững trong thời đại số
n nhiều nơi thực hiện chưa đúng với “Luật Di sản”, nhiều di sản bị xâm hại, bị thương mại hóa dẫn đến tình trạng bị biến dạng, méo mó. (2) Việc tu bổ, tôn tạo, nâng cấp di sản bộc lộ nhiều bất cập bởi kiểu tư duy thích “hiện đại hóa”, chạy theo “hào nhoáng” và làm mới di sản theo kiểu “nửa chừng xuân” đã khiến cho di sản mất đi nét chân thực, tính độc đáo, giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc vốn có của di sản. (3) Chính sách hỗ trợ nghệ nhân triển khai chưa kịp thời; chưa phát huy được thành tựu của khoa học, kỹ thuật, kiến trúc của thời kỳ 4.0 trong công tác bảo tồn, tôn tạo di sản và hệ thống giải pháp toàn diện phát huy giá trị DSVH trong chiến lược phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Đối với khu vực ASEAN, trong những năm gần đây, vấn đề giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH có nhiều thay đổi, nhất là sự đổi mới về tư duy, nhận thức đến phương thức thực hành. Phần lớn mỗi người dân trong cộng đồng ASEAN đã tự nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy giá trị DSVH, coi đó là “liều thuốc” tăng cường sức kháng thể để bảo vệ bản sắc văn hóa, lưu giữ cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia dân tộc trước sự tấn công của các làn sóng văn hóa lớn với chiến lược quảng bá, bành trướng “sức mạnh mềm”. Bên cạnh đó, các quốc gia trong khu vực thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo liên quan đến DSVH và phát triển di lịch nhằm tạo sự gắn kết, hỗ trợ, trao đổi kinh nghiệm về quá trình xây dựng, thực hiện các Hoàng T. Linh, Ngô T. K. Liên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 89-100 97 chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích: Thứ nhất, chống xuống cấp và tôn tạo di tích theo hướng ta ra những sản phẩm văn hóa đặc thù nhưng không gây biến dạng, giữ gìn tinh thần vẹn nguyên và sự lành mạnh của tài nguyên di sản. Thứ hai, giải quyết mối quan hệ giữa quản lý, bảo tồn và phát triển du lịch. Một mặt kiểm soát dòng người để đảm bảo không gây ra tình trạng quá tải, ô nhiễm cảnh quan môi trường và sự xuống cấp của di sản tạo; nhưng mặt khác phải làm cho các DSVH có sức hút đối với khách du lịch trong nước và quốc tế tạo động lực phát triển ASEAN thành điểm đến du lịch chất lượng cao với những trải nghiệm độc đáo, đa dạng. 3.2. Mối quan hệ biện chứng giữa quản lý, bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du lịch Trong tiến trình gia tăng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhiều quốc gia đã lựa chọn ưu tiên ngành “công nghiệp không khói”, đặc biệt là du lịch DSVH là một trong số chiến lược phát triển bền vững vì nó không chỉ đem lại nguồn lợi cao và còn truyền bá văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào và lúc nào cũng giải quyết được hài hòa mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động quản lý, bảo tồn DSVH và phát triển du lịch. Nhiều nhà nghiên cứu và thực hành liên quan đến tài nguyên DSVH đang lo ngại các giá trị văn hóa vô giá của di sản đang bị đánh đổi, xâm hại bởi các lợi ích thương mại. Trong khi đó, ngành du lịch lại thấy giá trị du dịch của nhiều di sản chưa được thỏa đáng và đánh giá đúng mức. Sự “xung đột” và bất hợp tác này vẫn thường xuyên xảy ra không chỉ ở các nước nghèo hay đang phát triển như Việt Nam mà nó hiện hữu ở ngay cả các nước phát triển. Và trên thực tế, vì những lí do và lợi ích khác nhau, trong không ít trường hợp, sự “xung đột” thường kết thúc với lợi thế về phía góp phần lớn cho phát triển kinh tế - xã hội, đó là du lịch. Trên lý thuyết, du lịch tốt cho sự phát triển kinh tế và bảo tồn di sản song thực tế, du lịch là một con dao hai lưỡi đối với vấn đề quản lý, bảo tồn DSVH nói riêng và bản sắc văn hóa của cộng đồng, quốc gia nói riêng (minh họa Bảng 1). Hệ quả này khiến mối quan hệ giữa hai bên căng thẳng, tạo ra những gánh nặng và thách thức cho chu trình quản lý DSVH đảm bảo được sự cân bằng giữa bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch một cách bền vững. Tuy nhiên, bên cạnh quan hệ “xung đột”, giữa quản lý, bảo tồn và phát triển du lịch còn có sự hợp tác. DSVH là tài nguyên vô giá để phát triển du lịch bền vững. Ngược lại, đối với di sản và người quản lý, du lịch tạo ta lợi nhuận có thể đầu tư cho những công việc quan trọng của công tác quản lý bền vững các DSVH như tìm kiếm, lưu trữ, lập kế hoạch và bảo tồn (McKercher & Du Cros, 2002). Tấm gương sáng của cộng đồng các quốc gia ASEAN trong việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển là Singapore, dù Thái Lan là điểm sáng cho sự thành công về phát triển ngành “công nghiệp không khói” trong khu vực và trở thành “thiên đường du lịch”. Để cân bằng giữa bảo tồn và phát triển, Singapore đã áp dụng cách tiếp cận trùng tu và tôn tạo kiểu tái sử dụng thích ứng (Adaptive Reuse). Đó là cách tư duy khôn ngoan và thực dụng thông qua giảm thiểu tối đa các thiệt thòi tổn thất của chủ công trình, đồng thời khuyến khích thành phần tư nhân tham gia vào bảo tồn để cân bằng giữa bảo tồn - phát triển. Đối với trùng tu tôn tạo, “nguyên tắc cơ bản nhất được áp dụng là 3R – Giữ lại (Retention) tối đa, Trùng tu (Restoration) tinh tế và Sửa chữa (Repair) cẩn trọng” (To Kien, 2018). Chính phủ Singapore đã và đang thực hiện bảo tồn, trùng tu tôn tạo theo các quy định kỹ thuật phân chia khác nhau theo từng khu vực được phân loại như: Khu vực lịch sử (khu vực lâu đời nhất, là cái nôi của thành phố, toàn bộ công trình phải được bảo tồn, trùng tu), khu vực dân dư lịch sử (nằm gần trung tâm thành phố, có thể tôn tạo thêm để tăng khả năng thích ứng với không gian hiện đại), khu vực “Khu định cư Thứ hai” (nằm xa hơn khu trung tâm thứ nhất, cho phép chủ công trình có thể lựa chọn bảo tồn linh hoạt, tập trung vào cảnh quan đường phố), khu vực bungalow (là khu vực đại điện cho phong cách kiến trúc của nhiều thời kỳ lịch sử, tuy phải thông qua xét duyệt nghiêm ngặt nhưng chỉ khu nhà chính là nhất thiết phải bảo tồn; phần còn lại của khu đất, chủ sở hữu có thể chia nhỏ để xây mới bổ sung); khoảng du di linh hoạt trong áp dụng giữa trùng tu và tái sử dụng thích ứng (cho phép chủ sở hữu 98 Hoàng T. Linh, Ngô T. K. Liên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 89-100 khai thác tiền năng kinh tế, trong khi vãn giữ gìn bản sắc chủ đạo ở mặt tiền của công trình bảo tồn) (To Kien, 2018). Nhìn chung, cách bảo tồn tôn tạo kiểu tái sử dụng thích ứng có thể được xem là phổ biến và thành công nhất vì nó dung hòa được mẫu thuẫ giữa các nhóm lợi ích. 4. Kết nối di sản văn hóa, phát triển du lịch ASEAN bền vững trong thời đại số Với chủ đề “ASEAN: Đồng nhất với thế giới”, năm 2019 vừa qua được chỉ định là “Năm văn hóa ASEAN”. Đó là một năm có nhiều thành công của liên ngành Di sản – Du lịch ASEAN nói chung vì không chỉ hướng được đến mục đích quảng bá các DSVH phong phú, đa dạng và đặc sắc mà còn đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội, đem lại lợi ích cho cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức, các nhân. ASEAN vốn được mệnh danh là “điểm đến du lịch hấp dẫn toàn cầu” với nhiều nguồn tài nguyên DSVH thế giới. Do đó, việc kết nối DSVH, thúc đẩy phát triển du lịch bền vững cuả cả khu vực là quyết sách quan trọng trong chiến lược phát triển mỗi quốc gia ASEAN. Trên cơ sở khẳng định vai trò của DSVH thế giới trong phát triển kinh tế - xã hội và du lịch ASEAN; đồng thời, khuyến khích, ủng hộ khởi xướng những ý tưởng sáng tạo phát triển du lịch DSVH trên nền tảng phát triển của công nghệ số trong thời đại của cuộc Cách mạng 4.0, các nước ASEAN mong muốn đổi mới, kết nối giá trị di sản chung của khu vực. Đây được xem là một giải pháp bền vững, không chỉ tạo dựng sức mạnh thống nhất trong khu vực cùng những cam kết mạnh mẽ về quản lý, bảo tồn trên cơ sở ứng dụng thành tựu công nghệ hiện đại mà còn hướng đến phát triển du lịch sáng tạo, du lịch khám phá với nhiều trải nghiệm mới. Tuy nhiên, muốn đạt được kết quả như trên cần những sáng kiến, ý tưởng ứng dụng cụ thể thành tựu công nghệ mới trong kết nối DSVH thế giới nói chung của khu vực, tạo dựng “sức mạnh thống nhất” trong ASEAN. Để sự kết nối DSVH và phát triển du lịch ASEAN bền vững trong thời đại số được hiệu quả có thể áp dụng một số khuyến nghị sau: Một là, xây dựng chương trình quy hoạch tổng thể, dài hơi về phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy các DSVH. Có chiến lược phát triển du lịch văn hóa phù hợp nhằm khai thác được các yếu tố đặc trưng của DSVH, hướng đến quảng bá hình ảnh và truyền thống văn hóa đặc sắc của vùng miền, quốc gia, khu vực trên cơ sở đề cao vai trò văn hóa bản địa cũng như sự tôn trọng tính đa dạng của văn hóa. Hai là, khai thác sức mạnh của truyền thông trong phát triển bền vững du lịch DSVH đến các chủ thể của điểm đến du lịch di sản. Thông qua tổ chức sự kiện xúc tiến FAM/Press, chương trình phát động thị trường, quan hệ công chúng hoặc tổ chức các chiến dịch truyền thông qua mạng xã hội và các công nghệ tiên tiến hiện đại để quảng bá điểm đến du lịch DSVH cũng như truyền tải thông tin về giá trị cốt lõi, các nguyên tắc bảo tồn của DSVH trong quá trình phát triển; nâng cao nhận thức về phát triển du lịch gắn liền với bảo tồn, phát huy các DSVH. Ba là, phát huy thế mạnh của DSVH trong liên kết phát triển du lịch giữa các vùng miền, quốc gia trong khu vực ASEAN như ẩm thực, các DSVH và tôn giáo đa dạng, các loại hình nghệ thuật, truyền thống dân tộc và sự lãng mạn trong các công trình kiến trúc trên nguyên tắc tôn vinh, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản. Bồn là, xây dựng hệ thống dữ liệu số hóa về DSVH của các quốc gia trong khu vực ASEAN, ứng dụng công nghệ 4.0 trong quản lý khai thác DSVH, phát triển du lịch di sản và nâng cao khả năng kết nối của du khách (như thuyết minh đa ngôn ngữ, thuyết minh tự động giới thiệu thông tin, lịch sử, thông tin về các loại hình DSVH trong ASEAN). Chú trọng chia sẻ, trao đổi dữ liệu về các dòng khách giữa các điểm di sản trước/trong/sau tour du lịch. Xây dựng tour du lịch về DSVH có chất lượng tiêu chuẩn và ổn định với các sản phẩm đặc trưng, đồng thời, bổ trợ lẫn nhau giữa các điểm điến trong khu vực ASEAN Hoàng T. Linh, Ngô T. K. Liên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 89-100 99 5. Kết luận Do có nhiều tương đồng về không gian, địa lý và bối cảnh lịch sử, nguồn tài nguyên DSVH các nước Đông Nam Á đều được sở hữu nét đặc trưng Á Đông riêng không thể hòa lẫn. Trước/trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của thời kỳ 4.0 hiện nay, sự tương đồng trên là cơ sở, nền tảng thuận lợi để tạo ra liên kết mới cùng với những cam kết mạnh mẽ trong quản lý, bảo tồn và phát triển du lịch DSVH ASEAN, góp phần vào sự thịnh vượng chung của khu vực cũng như các nước thành viên. Tăng cường sự liên kết hợp tác các DSVH nói riêng và mối liên hệ trong khu vực nói chung trong việc thực hiện mục tiêu: “Đến năm 2025, phát triển ASEAN thành điểm đến du lịch chất lượng cao với những trải nghiệm độc đáo, đa dạng”. Với những ý nghĩa trên, sự liên kết giữa bộ ba: Quản lý – bảo tồn – phát triển du lịch DSVH cũng như sự kết nối, hợp nhất giữa các thành viên ASEAN chính là sự chung tay giữ gìn văn hóa và DSVH quá khứ cho tương lai và sự phát triển bền vững. Tài liệu tham khảo Garrod, B., & Fyall, A. (2000). Managing heritage tourism (Quản lý du lịch di sản). Annals of Tourism Research, 27(3), 682-708. Huy Vu (2019). Các nước Đông Nam Á hợp sức bảo tồn và phát triển di sản văn hóa [Southeast Asian countries join to preserve and develop cultural heritage]. Retrieved February 15, 2020, from https://baomoi.com/cac-nuoc-dong-nam-a-hop-suc-bao-ton-va-phat-trien-di- san-van-hoa/c/32403604.epi Jokilehto, J. (2005). Definition of cultural heritage - Reference to documents in history [Định nghĩa về di sản văn hóa - Tham khảo các tài liệu trong lịch sử]. ICCROM Working Groups' Heritage and Society. Kreag, G. (2001). The impacts of tourism [Tác động của du lịch]. Retrieved March 15, 2020, from Lam, D. T. M., Chu, A. L., & Nguyen, T. A. (2019). Tài nguyên di sản văn hóa trong bối cảnh đương đại (Thách thức, khó khăn trong bảo tồn và phát huy giá trị) (phần 2 và hết) [Cultural heritage resources in contemporary context (Challenges, difficulties in preserving and promoting values) (Part 2 and end)]. Retrieved February 10, 2020, from djuong-djai-thach-thuc-kho-khan-trong-bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-phan-2-va-het.html Luu, T. T. (2019). Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vì sự phát triển bền vững [Preserving and promoting cultural heritages for sustainable development]. Retrieved May 15, 2020, from su-phat-trien-ben-vung/ McKercher, B., & Du Cros, H. (2002). Cultural tourism - The partnership between tourism and cultural heritage management [Du lịch văn hóa - Mối quan hệ giữa du lịch và quản lý di sản văn hóa]. New York, NY: The Haworth Hospitality Press. McManus, R. (1997). Heritage and tourism in Ireland - An unholy alliance? [Di sản và du lịch ở Ireland - đồng minh phi thần thánh?]. Irish Geography, 30(2), 90-98. Pham Phuong (2015). Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa hướng tới du lịch có trách nhiệm [Preserving and promoting cultural heritages towards responsible tourism]. Retrieved May 10, 2020, from 100 Hoàng T. Linh, Ngô T. K. Liên. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(6), 89-100 Tạp Chí của Ban Tuyên Giáo Trung Ương (2019). Phát huy giá trị di sản văn hóa tạo cơ hội phát triển du lịch [Promoting the value of cultural heritage to create opportunities for tourism development]. Retrieved March 12, 2020, from hoi/van-hoa/phat-huy-gia-tri-di-san-van-hoa-tao-co-hoi-phat-trien-du-lich-125393 To Kien (2018). Kinh nghiệm bảo tồn di sản kiến trúc đô thị theo hướng bền vững ở Singapore và Nhật Bản [Experience in preserving sustainable urban architectural heritage in Singapore and Japan]. Retrieved March 10, 2020, from https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/kinh-nghiem-bao-ton-di-san-kien-truc-do- thi-theo-huong-ben-vung-o-singapore-nhat-ban.html UNESCO. (1999). The nomination to Unesco for inscription on the world cultural heritage list- Hoi An ancient town [Hồ sơ đề cử UNESCO Danh hiệu Di sản văn hóa thế giới - Phố cổ Hội An]. Retrieved March 10, 2020, from Ủy ban quốc gia về Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa. (1992). Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa [World cultural development decade]. Hanoi, Vietnam: Bộ văn hóa Thông tin và thể thao. Vu, G. M. (2017, March). Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá trong chiến lược phát triển bền vững: Những vấn đề đặt ra [Preservation and promotion of cultural heritage values in sustainable development strategy: Issues recognized]. Paper presented at Kỷ yếu Hội thảo Khoa học ″Di sản văn hoá với Chiến lược phát triển bền vững″, Bộ VHTTDL và Hội đồng Di sản Văn hoá Quốc gia, Hà Nội. Yamashita, S. (2010). Cultural heritage in the age of globalization: A pespective from the anthropology of cultural resource. Paper presented at the Cultural Resource Studies Asian Linkage Building Seminar 2010, Kanazawa University, Japan.
File đính kèm:
- quan_ly_bao_ton_di_san_van_hoa_va_su_ket_noi_phat_trien_du_l.pdf