Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

Bài viết nghiên cứu phong cách học tập tiếng Trung Quốc

của sinh viên Khoa Tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở lí thuyết về phong cách học

tập của Reid (1984), chúng tôi tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi

với 250 sinh viên. Kết quả cho thấy các loại phong cách học tập

đều thuộc cấp độ phong cách học tập chính, trong đó phong cách

học tập thính giác là phong cách học tập được yêu thích nhất.

Giới tính không ảnh hưởng đến phong cách học tập của sinh

viên. Song, thời gian học tập có ảnh hưởng đến phong cách học

tập loại thính giác của sinh viên, vùng miền có ảnh hưởng đến

phong cách học tập loại cá nhân của sinh viên. Phong cách học

tập loại cá nhân và loại nhóm có ảnh hưởng đến kết quả học tập

của sinh viên.

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 8

Trang 8

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 9

Trang 9

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 03/01/2022 4380
Bạn đang xem tài liệu "Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

Phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khoa tiếng Trung, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
t; 13.5 với độ lệch chuẩn SD tương đối thấp, đều thuộc cấp độ phong cách học tập chính. 
Thứ tự từ cao đến thấp của sáu loại phong cách học tập của sinh viên nam là loại thính giác > loại 
vận động > loại nhóm > loại thị giác > loại xúc giác > loại cá nhân, và của sinh viên nữ là loại 
thính giác > loại vận động > loại nhóm > loại xúc giác > loại thị giác > loại cá nhân. Điều này cho 
thấy, có sự khác biệt về thứ tự mức độ yêu thích phong cách học tập của sinh viên nam và sinh 
viên nữ. Sinh viên nam thích phong cách học tập loại thị giác hơn loại xúc giác, sinh viên nữ thì 
ngược lại. 
Kết quả kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể - trường hợp mẫu độc lập ở 
các loại phong cách học tập giữa sinh viên nam và sinh viên nữ đều không có sự khác biệt có ý 
nghĩa (p > 0.05). Điều này cho thấy, giới tính không ảnh hưởng đến phong cách học tập tiếng 
Trung Quốc của sinh viên. Kết quả này giống với kết quả nghiên cứu của Yang (2012) và Yin 
(2019), không giống với kết quả nghiên cứu của Chen (2015), Wei (2020). 
4.2.2. Ảnh hưởng của thời gian học tập đối với phong cách học tập tiếng Trung Quốc 
Trong số sinh viên tham gia khảo sát, có 46 sinh viên năm thứ hai (chiếm tỉ lệ 18.4%), 131 
sinh viên năm thứ ba (chiếm tỉ lệ 52.4%) và 73 sinh viên năm thứ tư (chiếm tỉ lệ 29.2%). Mức độ 
các loại phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên thuộc ba nhóm trên như sau (xem 
Bảng 4): 
Bảng 4 
Đặc điểm phong cách học tập tiếng Trung Quốc theo thời gian học tập 
Phong cách học tập Cấp lớp Mean SD F p 
Loại thị giác 
Năm 2 19.24 8.006 
2.462 0.087 Năm 3 18.01 2.767 
Năm 4 17.48 2.829 
Loại thính giác 
Năm 2 21.04 2.538 
6.879 0.001 Năm 3 20.45 2.506 
Năm 4 19.36 2.776 
Loại xúc giác 
Năm 2 18.50 3.161 
0.410 0.664 Năm 3 18.95 3.146 
Năm 4 18.63 3.596 
Loại vận động 
Năm 2 20.35 3.171 
0.878 0.417 
Năm 3 20.23 2.805 
 10 Lưu Hớn Vũ. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1),5-14 
Phong cách học tập Cấp lớp Mean SD F p 
Năm 4 19.71 3.277 
Loại nhóm 
Năm 2 20.02 2.848 
1.922 0.149 Năm 3 18.96 3.661 
Năm 4 19.63 3.462 
Loại cá nhân 
Năm 2 16.67 4.437 
1.340 0.264 Năm 3 17.00 4.474 
Năm 4 15.90 4.882 
Nguồn: Kết quả xử lí số liệu điều tra 
Bảng 4 cho thấy, các loại phong cách học tập của sinh viên năm 2, sinh viên năm 3 và sinh 
viên năm 4 đều có Mean > 13.5 với độ lệch chuẩn SD tương đối thấp, đều thuộc cấp độ phong 
cách học tập chính. Thứ tự từ cao đến thấp của sáu loại phong cách học tập của sinh viên năm 2 là 
loại thính giác > loại vận động > loại nhóm > loại thị giác > loại xúc giác > loại cá nhân, của sinh 
viên năm 3 là loại thính giác > loại vận động > loại nhóm > loại xúc giác > loại thị giác > loại cá 
nhân, và của sinh viên năm 4 là loại vận động > loại nhóm > loại thính giác > loại xúc giác > loại 
thị giác > loại cá nhân. Điều này cho thấy, có sự khác biệt về thứ tự mức độ yêu thích phong cách 
học tập của sinh viên năm 2, sinh viên năm 3 và sinh viên năm 4. Sinh viên năm 2 thích phong 
cách học tập loại thị giác hơn loại xúc giác, sinh viên năm 3 thì ngược lại. Sinh viên năm 4 thích 
phong cách học tập loại vận động và loại nhóm hơn loại thính giác, sinh viên năm 2 và sinh viên 
năm 3 thì ngược lại. 
Kết quả kiểm định phương sai một nhân tố ở các loại phong cách học tập giữa sinh viên 
năm 2, sinh viên năm 3 và sinh viên năm 4 cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.05) về phong 
cách học tập loại thính giác. Sinh viên năm 2 yêu thích phong cách học tập loại thính giác hơn sinh 
viên năm 3 và sinh viên năm 4. Điều này cho thấy, thời gian học tập có ảnh hưởng đến phong cách 
học tập tiếng Trung Quốc loại thính giác của sinh viên. Kết quả này không giống với kết quả 
nghiên cứu của Yang (2012) và Fang (2013). 
4.2.3. Ảnh hưởng của vùng miền đối với phong cách học tập tiếng Trung Quốc 
Trong số sinh viên tham gia khảo sát, có 23 sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Bắc 
(chiếm tỉ lệ 9.2%), 74 sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Trung (chiếm tỉ lệ 29.6%) và 153 sinh 
viên đến từ các tỉnh, thành miền Nam (chiếm tỉ lệ 61.2%). Mức độ các loại phong cách học tập 
tiếng Trung Quốc của sinh viên thuộc ba nhóm trên như sau (xem Bảng 5): 
Bảng 5 
Đặc điểm phong cách học tập tiếng Trung Quốc theo vùng miền 
Phong cách học tập Vùng miền Mean SD F p 
Loại thị giác 
Bắc 17.52 2.695 
1.239 0.291 Trung 17.55 2.785 
Nam 18.42 4.982 
Loại thính giác 
Bắc 20.57 2.555 
0.229 0.795 
Trung 20.14 2.873 
 Lưu Hớn Vũ. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 5-14 11 
Phong cách học tập Vùng miền Mean SD F p 
Nam 20.24 2.570 
Loại xúc giác 
Bắc 18.78 2.891 
0.111 0.895 Trung 18.92 3.096 
Nam 18.70 3.432 
Loại vận động 
Bắc 20.13 2.959 
1.421 0.243 Trung 20.58 2.966 
Nam 19.86 3.039 
Loại nhóm 
Bắc 20.43 3.422 
1.989 0.139 Trung 19.65 3.692 
Nam 19.05 3.361 
Loại cá nhân 
Bắc 14.57 4.110 
4.823 0.009 Trung 15.92 4.730 
Nam 17.27 4.485 
Nguồn: Kết quả xử lí số liệu điều tra 
Bảng 5 cho thấy, các loại phong cách học tập của sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền 
Bắc, sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Trung và sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Nam 
đều có Mean > 13.5 với độ lệch chuẩn SD tương đối thấp, đều thuộc cấp độ phong cách học tập 
chính. Thứ tự từ cao đến thấp của sáu loại phong cách học tập của sinh viên đến từ các tỉnh, thành 
miền Bắc là loại thính giác > loại nhóm > loại vận động > loại xúc giác > loại thị giác > loại cá 
nhân, của sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Trung là loại vận động > loại thính giác > loại 
nhóm > loại xúc giác > loại thị giác > loại cá nhân, và của sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền 
Nam là loại thính giác > loại vận động > loại nhóm > loại xúc giác > loại thị giác > loại cá nhân. 
Điều này cho thấy, có sự khác biệt về thứ tự mức độ yêu thích phong cách học tập của sinh viên 
đến từ các vùng miền khác nhau. Sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Bắc thích phong cách học 
tập loại nhóm hơn loại vận động, sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Nam và miền Trung thì 
ngược lại. Sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Bắc và miền Nam đều thích phong cách học tập 
loại thính giác hơn loại vận động, sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Trung thì ngược lại. 
Kết quả kiểm định phương sai một nhân tố ở các loại phong cách học tập giữa sinh viên 
đến từ các tỉnh, thành miền Bắc, sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Trung và sinh viên đến từ 
các tỉnh, thành miền Nam cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0.05) ở phong cách học tập loại 
cá nhân. Điều này cho thấy, vùng miền có ảnh hưởng đến phong cách học tập tiếng Trung Quốc 
loại cá nhân của sinh viên. 
4.3. Mối quan hệ giữa kết quả học tập và phong cách học tập tiếng Trung Quốc 
Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tương quan Pearson để kiểm định mối tương 
quan giữa kết quả học tập và phong cách học tập tiếng Trung Quốc. Kết quả như sau (xem 
Bảng 6): 
 12 Lưu Hớn Vũ. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1),5-14 
Bảng 6 
Phân tích tương quan giữa kết quả học tập và phong cách học tập tiếng Trung Quốc 
Loại thị 
giác 
Loại thính 
giác 
Loại xúc 
giác 
Loại vận 
động 
Loại nhóm 
Loại cá 
nhân 
Kết quả học 
tập 
r = 0.057 
p = 0.371 
r = 0.072 
p = 0.258 
r = 0.017 
p = 0.792 
r = 0.086 
p = 0.175 
r = -0.144 
p = 0.022 
r = 0.158 
p = 0.012 
Nguồn: Kết quả xử lí số liệu điều tra 
Bảng 6 cho thấy, tồn tại mối tương quan thuận giữa kết quả học tập và phong cách học tập 
loại cá nhân (p < 0.05) và mối tương quan nghịch giữa kết quả học tập và phong cách học tập loại 
nhóm (p < 0.05). Qua đó cho thấy, sinh viên càng thích phong cách học tập loại cá nhân thì có kết 
quả học tập càng cao, sinh viên càng thích phong cách học tập loại nhóm thì có kết quả học tập 
càng thấp. Có thể nói, kết quả học tập chịu ảnh hưởng nhất định bởi phong cách học tập loại nhóm 
và loại cá nhân của sinh viên. Nói cách khác, sinh viên càng có khuynh hướng phong cách học tập 
loại cá nhân sẽ có kết quả học tập càng cao, sinh viên càng có khuynh hướng phong cách học tập 
loại nhóm sẽ có kết quả học tập càng thấp. 
5. Kết luận và khuyến nghị 
Các loại phong cách học tập tiếng Trung Quốc của sinh viên Khoa Tiếng Trung HCMUE 
đều thuộc cấp độ phong cách học tập chính, có thứ tự từ cao đến thấp là loại thính giác > loại vận 
động > loại nhóm > loại xúc giác > loại thị giác > loại cá nhân. Song, có sự khác biệt thứ tự mức 
độ yêu thích các loại phong cách học tập giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên năm 
2, năm 3 và sinh viên năm 4, giữa sinh viên đến từ các tỉnh, thành miền Bắc, miền Trung và 
miền Nam. 
Nhân tố giới tính không ảnh hưởng đến phong cách học tập của sinh viên. Song, nhân tố 
thời gian học tập có ảnh hưởng đến phong cách học tập loại thính giác của sinh viên, nhân tố vùng 
miền có ảnh hưởng đến phong cách học tập loại cá nhân của sinh viên. Kết quả học tập chịu ảnh 
hưởng bởi phong cách học tập của sinh viên, sinh viên càng có khuynh hướng phong cách học tập 
loại cá nhân sẽ có kết quả học tập càng cao, sinh viên càng có khuynh hướng phong cách học tập 
loại nhóm sẽ có kết quả học tập càng thấp. 
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu trên đây, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau: 
Thứ nhất, phong cách học tập loại thính giác là phong cách học tập sinh viên yêu thích 
nhất. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy giảng viên nên chủ động sử dụng tiếng Trung Quốc, yêu 
cầu sinh viên đọc to khi đọc từ vựng, mẫu câu, bài khoá. Ngoài ra, giảng viên cũng nên cung cấp 
thêm các tài liệu kích thích thính giác của sinh viên, như các đoạn ghi âm bài khoá, hoặc bổ sung 
các tài liệu kết hợp cả thính giác và thị giác như các đoạn video clip có nội dung liên quan đến bài 
học, qua đó phát huy hơn nữa sở trường thính giác của sinh viên. 
Thứ hai, phong cách học tập loại thị giác là một trong những phong cách học tập không 
được sinh viên yêu thích. Điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển các kĩ năng đọc, viết 
tiếng Trung Quốc của sinh viên. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy giảng viên cần chú ý cách trình 
bày bài giảng trên bảng, đồng thời bổ sung thêm các tài liệu trực quan, sinh động (như hình ảnh, 
vật mô phỏng) kích thích thị giác của sinh viên. 
Thứ ba, phong cách học tập loại cá nhân là phong cách học tập không được sinh viên yêu 
thích nhất. Song, loại phong cách học tập này lại có ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên. 
Những sinh viên yêu thích phong cách học tập loại cá nhân là những sinh viên có kết quả học tập 
 Lưu Hớn Vũ. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 5-14 13 
cao, còn những sinh viên yêu thích phong cách học tập loại nhóm lại là những sinh viên có kết quả 
học tập thấp. Đây là điều rất đáng được quan tâm. Xu hướng giáo dục hiện nay là đưa các hoạt 
động nhóm vào lớp học, nhằm tăng tính tích cực trong học tập của sinh viên, song đại đa số các 
bài đánh giá quá trình và kết thúc học phần đều yêu cầu cá nhân tự hoàn thành. Vì vậy, giảng viên 
cần kết hợp bài tập cá nhân và bài tập nhóm trong hoạt động giảng dạy và đánh giá kết quả học 
tập. Đồng thời, khuyến khích các sinh viên có phong cách học tập loại cá nhân tham gia các hoạt 
động nhóm, giúp đỡ các bạn trong nhóm để mọi người cùng tiến bộ. 
Tài liệu tham khảo 
Chen, T. X. (2015). Meiguo daxue Hanyu xuexizhe xuexi fengge qingxiangxing yanjiu [A study of 
learning preferences about CSL learners in American universities]. Comparative Education 
Review, 37(12), 16-23. 
Cheng, Z. J. (2014). Jiyu SPSS ruanjian de Hanyu chu gaoji liuxuesheng xuexi fengge de duibi 
yanjiu [A comparative study of the learning styles of Chinese elementary and advanced foreign 
students based on SPSS software]. Modern Chinese (Language Research Edition), 12, 67-71. 
Ellis, R. (1994). The study of second language acquisition. Oxford, UK: Oxford University Press. 
Fang, M. (2013). Taiguo xuesheng Hanyu xuexi fengge ji qi xuexi xiaoguo yanjiu [A study on Thai 
students’ Chinese learning styles and their learning effects] (Master’s thesis). Shanghai 
Normal University, Shanghai, China. 
Gass, S., & Selinker, L. (2008). Second language acquisition: An introductory course (3rd ed.). 
New York, USA: Routledge. 
Keefe, J. W. (1979). Learning style: An overview. In NASSP’s student learning styles: Diagnosing 
and prescribing programs. Reston, VA: National Association of Secondary School Principals. 
Reid, J. M. (1984). Perceptual learning style preference questionnaire. Laramie, USA: University 
of Wyoming, Department of English. 
Reid, J. M. (1987). the learning style preferences of ESL students. TESOL Quarterly, 21(1), 87-110. 
Tan, D. L. (1995). Xuexi fengge lun [Learning style theory]. Nanjing, China: Jiangsu Education Press. 
Thelen, H. (1954). Dynamics of groups at work. Chicago, IL: The University of Chicago Press. 
Wang, X. Y. (2017). Hanyu xuexi fengge diaocha yanjiu - Yi Shanghai Jiaotong Daxue Hanyu guoji 
jiaoyu zhongxin liuxuesheng wei li [Investigation and research on Chinese learning style - A 
case study of international students of Shanghai Jiao Tong University Chinese International 
Education Center]. Modern Chinese (Academic Comprehensive Edition), 6, 142-146. 
Wei, Z. Y. (2020). Zhongya Dongganzu liuxuesheng Hanyu ganzhi xuexi fengge de diaocha yu 
yanjiu - Yi Xibei Shifan Daxue wei li [Investigation and research on Chinese perceptual 
learning style of Dungan international students in Central Asia - A case study of Northwest 
Normal University] (Master’s thesis). Lanzhou, China: Northwest Normal University. 
Wintergerst, A. C., DeCapua, A. & Verna, M. A. (2003). Conceptualizing learning style modalities 
for ESL/EFL students. System, 31(1), 85-106. 
Wu, S. N. (2009). Xiongyali xuesheng de xuexi fengge ji qi dui Hanyu ketang huodong pianhao de 
yingxiang [The learning style of Hungarian students and its influence on the preference of 
Chinese classroom activities]. International Chinese Language Education, 4, 51-60. 
Yang, Z. L. (2012). Chenggong Hanyu xuexizhe de xuexi celue ji xuexi fengge yanjiu [A study of 
 14 Lưu Hớn Vũ. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1),5-14 
learning strategies and learning styles of successful Chinese learners] (Master’s thesis). Jinan, 
China: Shandong University. 
Yin, J. Z. (2019). Yinni lai Hua liuxuesheng Hanyu xuexi fengge yu chengji xiangguanxing yanjiu - 
Yi Shanghai Waiguoyu Daxue wei li [The correlation research between Chinese learning 
styles and achievements of Indonesian students in China - Taking Shanghai International 
Studies University as an example] (Master’s thesis). Shanghai, China: Shanghai International 
Studies University. 
Zhang, L. (2014). Yidali zhongji Hanyu xuexizhe de xuexi fengge he jiaoxue qishi [Learning styles 
and teaching enlightenment of Italian intermediate Chinese learners]. Newsletter of the 
International Society for Chinese Language Teaching, 2 , 9-11. 

File đính kèm:

  • pdfphong_cach_hoc_tap_tieng_trung_quoc_cua_sinh_vien_viet_nam_n.pdf