Phát huy vai trò của kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực góp phần phòng chống tham nhũng
Kiểm soát quyền lực có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước và đảm bảo tính liêm chính của bộ máy nhà nước. Trong bất kỳ hệ thống chính trị nào thì việc xây dựng cơ chế và tổ chức thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực luôn là vấn đề quan trọng cần được xác định rõ trong thể chế chính trị và tổ chức thực thi. Để kiểm soát quyền lực, cần cơ chế và các thiết chế để tổ chức thực hiện. Kiểm toán nhà nước với tư cách là một thiết chế quan trọng do Quốc hội thành lập có vai trò quan trọng trong kiểm soát quyền lực. Trên cơ sở xác định đúng vị trí, vai trò của Kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực, đánh giá những đóng góp của Kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực góp phần phòng chống tham nhũng và phân tích những bất cập về cơ chế và hành lang pháp lý cho việc kiểm soát quyền lực của Kiểm toán nhà nước, bài viết này đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của Kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực góp phần phòng chống tham nhũng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát huy vai trò của kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực góp phần phòng chống tham nhũng
giá đất thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (2015); Các tập thể và cá nhân có liên quan tại tỉnh Hòa Bình tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Văn bản số 970/UBND-NNTN ngày 30/7/2015 về việc thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có nội dung “Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản phải nộp của năm 2014 thời hạn chậm nhất là trước ngày 30/9/2015; Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản phải nộp của năm 2015 thời hạn chậm nhất là trước ngày 31/12/2015” trái với Điều 10, Điều 11 Nghị định 203/2013/NĐ-CP ngày 28/11/2013 của Chính phủ; các cơ quan chức năng của TP Việt Trì (Phú Thọ) không kịp thời tham mưu để điều chỉnh đơn giá thuê đất đối với các doanh nghiệp trong các Khu công nghiệp (KCN Thụy Vân, KCN Trung Hà, Cụm công nghiệp Bạch Hạc) theo các văn bản điều chỉnh của Nhà nước dẫn đến thất thu cho ngân sách 9.477 triệu đồng; Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Công văn số 2684/UBND-KTN ngày 28/7/2011 của UBND tỉnh về việc ủy quyền cho 13 huyện cấp phép khai thác tài nguyên khoáng sản trên địa bàn quản lý trái thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 (2017) [2,3]. Bốn là, Mỗi năm Kiểm toán nhà nước đã phát hiện hàng trăm trường hợp không thực hiện đúng chức trách, quyền hạn được giao trong tổ chức thực hiện pháp luật làm thất thoát ngân sách nhà nước. Qua đó, kiến nghị truy thu và xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Điển hình là các trường hợp: Cục Hải quan Gia Lai - Kon Tum xóa nợ thuế xuất nhập khẩu không đúng đối tượng (2015); Cục trưởng Cục thuế tỉnh Đắc Lắc và các bộ phận liên quan cho 20 công ty trồng cà phê, cao su trên địa bàn miễn tiền thuê đất sai quy định, gây thất thu ngân sách nhà nước 33.570 triệu đồng; thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế nhưng không phát hiện Công ty CP Công trình Việt Nguyên miễn, giảm sai thuế TNDN năm 2015 là 669,6 triệu đồng (2016); Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện Ea H‘Leo (tỉnh Đắc Lắc) và các bộ phận liên quan chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong quản lý thu nợ, bỏ qua các bước quy trình thu nợ từ nhiều 40 Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 năm, dẫn đến nợ đọng khó thu tăng cao (bằng 108,8% tổng thu trên địa bàn huyện), trong đó có 01 chủ doanh nghiệp số dư nợ 29,8 tỷ đồng nhưng trong 5 năm qua Chi cục Thuế chưa cưỡng chế và không thực hiện các bước quy trình thu nợ quy định gây thất thu NSNN hàng chục tỷ đồng (2016); Cục thuế tỉnh Kon Tum chưa quản lý thu hết các công trình xây dựng cơ bản vãng lai, hộ kinh doanh, phí, lệ phí; không thực hiện điều chỉnh thuế đối với các trường hợp có doanh thu tăng cao đột biến; chưa phối hợp với các Phòng ban của huyện dẫn đến bỏ sót nguồn thu từ kinh doanh ăn uống, karaoke, thú y, giết mổ gia súc (2016); Cục Thuế thuộc Gia Lai chưa quản lý thu đối với các công trình xây dựng cơ bản vãng lai, hộ kinh doanh; chưa phối hợp với các phòng, ban của huyện dẫn đến bỏ sót nguồn thu từ xây dựng cơ bản tư nhân, tiền thuê đất đối với diện tích đất vượt hạn điền (2017) [2,3]. Năm là, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện một số trường hợp lạm dụng quyền lực hoặc không thực thi đúng quyền lực gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước. Điển hình là các trường hợp: Cục thuế tỉnh Lâm Đồng không thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các tổ chức, cá nhân theo quy định (2016); Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Buôn Ma Thuột không thực hiện đúng tiến độ theo cam kết hợp đồng với chủ đầu tư; không đề xuất thực hiện cưỡng chế theo quy định; không giải thích đến các hộ dân về việc áp dụng các chính sách hỗ trợ mà đề xuất chi trả hỗ trợ sai quy định Khoản 4, Điều 39 Nghị định 69/2009/NĐ-CP (2017)... [2,3] Sáu là, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện những khoảng trống pháp lý, từ đó kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để ngăn ngừa lạm dụng quyền lực gây thất thoát ngân sách nhà nước. Điển hình là: Theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số 18/2012/NĐ-CP ngày 30/5/2014, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 của Chính phủ về Quỹ bảo trì đường bộ (2015); Sau khi có kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 22/4/2015 thay thế Thông tư liên tịch số 44/2007/ TTLT-BTC-BKHCN ngày 07/5/2007 hướng dẫn định mức xây dựng và phân bổ dự toán kinh phí đối với các đề tài, dự án khoa học và công nghệ có sử dụng NSNN; Sau khi có kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, Bộ Tài chính đã có Tờ trình Chính phủ số 86/TTr-BTC và Tờ trình số 87/TTr-BTC về việc xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 57/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính phủ về Điều lệ tổ chức và hoạt động của SCIC và dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của SCIC (2016)... [2,3]. 3. Một số vấn đề cần giải quyết để phát huy vai trò của kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực góp phần phòng chống tham nhũng Kiểm toán nhà nước là một thiết chế trong hệ thống chính trị nên đặt vấn đề kiểm soát quyền lực không thể đặt vấn đề riêng biệt mà phải xem xét vai trò của Kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực trong tổng thể thể chế và cơ chế hiện hành của Việt Nam. Do quy luật chung là “Quyền lực luôn có nguy cơ bị “tha hoá”, tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực” (Nguyễn Phú Trọng, 2018) nên kiểm soát quyền lực là cần thiết để đảm bảo người có quyền lực thực hiện đúng chức trách và quyền hạn của mình, ngăn ngừa lạm quyền và tham nhũng. Để việc kiểm soát quyền lực được hiệu quả thì điều quan trọng nhất là phải có cơ chế kiểm soát quyền lực sao cho không ai có quyền lực tuyệt đối, tức là cơ chế tổ chức bộ máy nhà nước phải đảm bảo sự kiểm soát và khắc chế lẫn nhau dựa trên nền tảng đảm bảo lợi ích của số đông. Lý do thuyết “tam quyền phân lập” trong tổ chức bộ máy nhà nước đã được thừa nhận rộng rãi, được áp dụng và phát triển ở những tầng nấc cao hơn thời gian qua chính là vì “tam quyền phân lập” đã đáp ứng được yêu cầu cốt yếu này. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo trên cơ sở Hiến pháp và pháp 41NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 luật. Theo đó, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013). Như vậy, xét về tổng thể thì thể chế nhà nước của chúng ta cho phép kiểm soát quyền lực đảm bảo yêu cầu cốt yếu đã nêu trên. Vậy, vấn đề đặt ra là: Tại sao trong thời gian qua vẫn có khá nhiều trường hợp lạm quyền, tham nhũng nhưng khi được phát hiện để xử lý thì khá muộn dẫn đến số tài sản nhà nước bị thất thoát hầu như không được thu hồi đáng kể? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, trong đó, có nguyên nhân thuộc về cơ chế, có nguyên nhân thuộc về việc cụ thể hóa cơ chế đó thành pháp luật, và có nguyên nhân về tổ chức thực hiện, cần phải khắc phục những nguyên nhân này thì mới đảm bảo kiểm soát tốt quyền lực, phòng ngừa tham nhũng. Cụ thể như sau: Thứ nhất, Cơ chế về kiểm soát quyền lực còn có khá nhiều khoảng trống pháp lý. Trên thực tế, vẫn có những vị trí quyền lực chưa được quy định cụ thể trách nhiệm đi kèm và chế tài xử lý nếu không hoàn thành trách nhiệm đó. Thực tế cho thấy, có không ít người đứng đầu sẵn sàng phát biểu công khai “nhận trách nhiệm” về những sai sót rất nghiêm trọng thuộc cơ quan mình nhưng sau khi nhận trách nhiệm như vậy thì vẫn đương chức, không bị kỷ luật hay đền bù về vật chất. Thêm vào đó, việc quy định trách nhiệm của người đứng đầu với những sai sót của cấp dưới cũng chưa thực sự rõ ràng. Vì lẽ đó, cần hoàn thiện cơ chế và thể chế hóa cơ chế đó bằng cách sửa đổi, bổ sung toàn diện các văn bản quy phạm pháp luật để lấp đầy các khoảng trống pháp lý nhằm tạo hành lang pháp lý kiểm soát và xử lý tốt các trường hợp lạm quyền; cần đảm bảo rằng, người được giao quyền phải chịu trách nhiệm bằng trách nhiệm hành chính và pháp lý cụ thể đối với từng mức độ sai phạm của chính mình và người dưới quyền. Nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là “Phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn”[7]. Thứ hai, Công tác tổ chức kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng còn chưa được thực hiện nghiêm minh. Tình trạng bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm đang tạo ra những rào cản lớn cho kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng. Muốn tổ chức thực hiện tốt kiểm soát quyền lực, cần ngăn ngừa khả năng tạo ra tình trạng này. Xét ở phương diện này, việc không bố trí người địa phương làm lãnh đạo chủ chốt Đảng và chính quyền các địa phương, không bố trí những người có quan hệ thân nhân cùng làm lãnh đạo ở một cơ quan, một địa phương là cần thiết. Ở góc độ này, có thể thấy ngay từ thời nhà Nguyễn đã có quy định mà ngày nay chúng ta cần học hỏi. Theo Cao Văn Thống (2018), để kiểm soát chặt chẽ quyền lực, phòng, chống sự tha hoá quyền lực, triều Nguyễn đã mở rộng diện và đối tượng áp dụng chế độ hồi tỵ, quy định những người thân như anh em, cha con, thầy trò, bạn bè cùng học, những người cùng quê... thì không được làm quan cùng một chỗ; người làm quan không được làm quan ở quê mình. Nếu ai gặp trường hợp này phải tâu báo lên triều đình để bố trí chuyển đi chỗ khác [7]. Nghị quyết Trung ương 7 khoá XII “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã đề ra một trong những mục tiêu: Đến năm 2020 đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí Bí thư cấp ủy tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương; đến năm 2025 cơ bản bố trí Bí thư cấp ủy tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện, đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác và xác định: Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí Bí thư cấp ủy tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện là một trong năm đột phá về công tác cán bộ thời gian tới. Quy định về cán bộ chủ chốt không phải là người địa phương... là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, đã có cơ cở lý luận và thực tiễn từ thời phong kiến đã được cha ông ta, trong đó có Vương triều Nguyễn vận dụng thực hiện với 42 Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 nhiều kinh nghiệm hay và có kết quả. Vấn đề hiện nay đối với Đảng và Nhà nước ta là quyết tâm và tổ chức thực hiện làm sao cho đúng lộ trình và có hiệu quả (Cao Văn Chóng, 2018) [7]. Chúng tôi cho rằng, để tạo ra cơ chế hữu hiệu hơn nữa phòng ngừa tệ bè phái, lợi ích nhóm thì không chỉ Bí thư cấp tỉnh và cấp huyện, mà Chủ tịch UBND cấp tỉnh và cấp huyện và Bí thư cấp ủy, Chủ tịch UBND cấp xã cũng không nên bố trí người địa phương. Thứ ba, Chưa thực sự minh bạch hóa mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Công khai minh bạch tài sản và thu nhập của người lãnh đạo và công chức là điều kiện tiền đề quan trọng để nhân dân, các tổ chức xã hội dân sự và các cơ quan nhà nước có điều kiện thuận lợi nhất kiểm soát quyền lực, góp phần phòng, chống tham nhũng. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã từng bước công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, công khai minh bạch ngân sách nhà nước. Tuy vậy, nội dung và hình thức công khai, mức độ công khai chưa được quy định rõ ràng nên chưa phát huy được tác dụng của việc công khai minh bạch. Quy định về kê khai tài sản của cán bộ, công chức chưa được thực hiện nghiêm, chưa có kiểm tra, giám sát được việc có kê khai đầy đủ và trung thực không và chưa công khai cho nhân dân giám sát. Đây chính là những vấn đề quan trọng cần thay đổi trong thời gian tới. Thứ tư, Chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra, giám sát của Đảng, Quốc hội, Chính phủ (trong đó có Kiểm toán nhà nước) đối với những trường hợp đã thực hiện thanh tra, kiểm tra nhưng không phát hiện được vi phạm trong khi thực tế có vi phạm nghiêm trọng. Theo đó, cần xác định những mức độ khác nhau với những điều kiện cụ thể về trách nhiệm trong phạm vi nội dung và quyền lực được giao trong kiểm tra, thanh tra, kiểm toán để xử lý trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức khi thực hiện quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát của mình. Quy định như vậy cũng chính là một “cơ chế” kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Tóm lại, với tư cách là một cơ quan do Quốc hội thành lập, giúp Quốc hội giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, Kiểm toán nhà nước có vai trò quan trọng trong kiểm soát quyền lực, góp phần phòng chống tham nhũng. Tuy nhiên, kiểm soát quyền lực là lĩnh vực rất khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề cần được giải quyết đồng bộ. Trong đó, sửa đổi cơ chế kiểm soát quyền lực, hoàn thiện hành lang pháp lý để lấp đầy những khoảng trống, những kẽ hở trong kiểm soát quyền lực và tổ chức thực hiện nghiêm minh là những vấn đề có ý nghĩa quyết định để phát huy vai trò của Kiểm toán nhà nước trong kiểm soát quyền lực, góp phần phòng, chống tham nhũng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kiểm toán nhà nước (2018), Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2017; 2. Kiểm toán nhà nước (2017), Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán 2016; 3. Nhị Lê (2019), “Đổi mới hình thái cấu trúc, cơ chế vận hành và kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 915 (tháng 1/2019) và 916 (tháng 2/2019); 4. Nguyễn Thị Kim Ngân (2019), “Tăng cường kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị bảo đảm thực hiện tốt quyền lực của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản online, ngày 19/2/2019; 5. Phan Xuân Sơn (2018), “Kiểm soát quyền lực trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Tạp chí Cộng sản, số 902 (tháng 12/2017); 6. Cao Văn Thống (2018), “Vận dụng cơ chế kiểm soát quyền lực của triều Nguyễn vào kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng hiện nay”, Lao động online, ngày 21/10/2018; 7. Nguyễn Phú Trọng (2018), “Tăng cường giám sát, kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng”, Bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng, ngày 25/6/2018.
File đính kèm:
- phat_huy_vai_tro_cua_kiem_toan_nha_nuoc_trong_kiem_soat_quye.pdf