Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa

Trong số các kiến trúc mang tính thờ tự tại xứ Thanh, có lẽ đền thờ

được xem là loại hình có tính tiêu biểu, tập trung nhiều hơn cả. Không ít các đền thờ ở

Thanh Hóa còn được xem là những công trình nghệ thuật kiến trúc - chạm khắc gỗ

truyền thống hội tụ nhiều giá trị như đền thờ Lê Hoàn (Thọ Xuân), đền thờ Thái úy Lý

Thường Kiệt (Hà Trung), đền thờ Tô Hiến Thành, đền thờ Triệu Việt Vương, nghè

Nguyệt Viên (Hoằng Hóa), nghè Giáp (Triệu Sơn), đền thờ Trần Khát Chân (Vĩnh

Lộc),. Những công trình kiến trúc này, đặc biệt là hệ thống các đền thờ cấp quốc gia,

đã được nhà nước xếp hạng, còn vẹn nguyên giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ

thuật là những nguồn liệu rất đáng quý để khai thác, phát triển du lịch.

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa trang 1

Trang 1

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa trang 2

Trang 2

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa trang 3

Trang 3

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa trang 4

Trang 4

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa trang 5

Trang 5

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa trang 6

Trang 6

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa trang 7

Trang 7

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 3820
Bạn đang xem tài liệu "Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa

Phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa
óa - lịch sử của địa phương để phát triển ngành “công nghiệp không khói”. 
 y ban Nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 2218/QĐ-UBND năm 2009 phê duyệt 
 63 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
dự án “Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 
2020”; Quyết định số 492/QĐ-UBND năm 2015 phê duyệt “Chiến lược phát triển du 
lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Đây là những cơ sở pháp 
lý quan trọng để thúc đẩy du lịch Thanh Hóa phát triển thành khu du lịch trọng điểm 
quốc gia. 
 Nhận thức, trách nhiệm và ý thức giữ gìn, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa để 
phát triển du lịch của các tầng lớp nhân dân ngày càng nâng cao, góp phần xây dựng 
môi trường du lịch thân thiện. Nhiều kết cấu hạ tầng quan trọng phục vụ phát triển kinh 
tế - xã hội gắn với phát triển du lịch được triển khai thi công mới hoặc sửa chữa. Một số 
di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, các lễ hội văn hóa truyền thống trên địa 
bàn tỉnh được đầu tư tôn tạo, nâng cấp, tổ chức mở rộng,... Thanh Hóa cũng liên kết, 
phối hợp với các tỉnh trong khu vực để phát triển du lịch; từng bước hình thành các 
tuyến, điểm du lịch thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Trong 7 tháng đầu 
năm 2016, Thanh Hóa đón được 4.879.000 lượt khách, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 
2015, đạt 78,1% kế hoạch năm 2016; tổng thu từ khách du lịch ước đạt 5.207 tỷ đồng, 
tăng 23,9% so với cùng kỳ năm 2015, đạt 83,3 % kế hoạch năm 2016. Chỉ tiêu kế hoạch 
5 tháng cuối năm 2016 đề ra với tổng lượt khách đón là 1.371.000 lượt khách, tăng 
7,1% so với cùng kỳ năm 2015; tổng thu từ du lịch là 1.043 tỷ đồng, tăng 7,6% so với 
cùng kỳ năm 20153. 
 Bên cạnh những kết quả đạt được, việc khai thác tiềm năng lợi thế các di tích 
lịch sử, văn hóa, danh thắng để phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa thời gian 
qua còn một số hạn chế, tốc độ còn chậm, thiếu tính bền vững; lượng khách du lịch đến 
tham quan các di tích lịch sử, văn hóa còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng 
hiện có; việc kêu gọi thu hút đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch, công tác quản lý bảo vệ các di 
tích lịch sử, văn hóa, danh thắng tại các địa phương trong tỉnh còn nhiều bất cập; nhiều 
di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng có tiềm năng lớn về du lịch chưa được đầu tư khai 
thác. Thanh Hóa có số lượng di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng lớn, nhiều di tích có 
giá trị lịch sử, văn hóa nhưng việc lập hồ sơ khoa học đề nghị cấp thẩm quyền công 
nhận xếp hạng tiến hành còn chậm; chưa có sự phối hợp đồng bộ, thường xuyên giữa 
tỉnh, huyện và các địa phương trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa 
nên tình trạng lấn chiếm đất đai, xâm hại di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng vẫn còn 
xảy ra ở nhiều địa phương. Công tác thanh kiểm tra còn bất cập nên chưa có biện pháp 
3 Nội dung cuộc họp Ban chỉ đạo Phát triển du lịch tỉnh Thanh 
Hóa. 
64 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
xử lý để chấm dứt tình trạng vi phạm này. Các thủ tục hành chính liên quan đến hợp tác 
đầu tư xây dựng và phát triển du lịch theo hướng bền vững còn gặp nhiều khó khăn. 
 Trong thời gian qua có thể thấy một số đền thờ cấp quốc gia được khai thác tốt 
phục vụ du lịch do nằm trong không gian tổ chức ở 6 điểm du lịch lớn gồm: Khu du lịch 
biển Sầm Sơn, Vườn quốc gia Bến En, Lam Kinh, đền Bà Triệu, Thành Nhà Hồ và 
Không gian văn hóa du lịch Hàm Rồng thuộc quy hoạch điều chỉnh phát triển tổng thể 
du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020. Mặc dù, tỉnh Thanh Hóa đã quy hoạch các tuyến 
du lịch nội tỉnh theo địa lý, phương tiện nhưng khả năng để các đền thờ cấp quốc gia 
thâm nhập vào hệ thống tuyến du lịch cố định và có tính hiệu quả cao hầu như chưa 
được hiệu quả. 
 Có nhiều nguyên nhân trong đó hạ tầng giao thông là hạn chế chủ yếu, ngoài ra, 
sức hấp dẫn của sản phẩm du lịch, xét theo khía cạnh sự hiếu kỳ, lôi cuốn do chính di 
tích tạo nên vẫn chưa được chú trọng. Đơn cử như một số di tích quốc gia thuộc hệ 
thống di tích vệ tinh của 6 tổ chức du lịch điểm của tỉnh ở Sầm Sơn, Vĩnh Lộc, Thọ 
Xuân, Hậu Lộc, Nông Cống, thành phố Thanh Hóa như đền Độc Cước, đền thờ Lê Thái 
Tổ, đền Trần Khát Chân, đền Nưa, Nghè Vích ở các địa phương kể trên, việc phát triển 
du lịch ở các di tích này hoàn toàn chưa chủ động, nặng tính tự phát, chưa tạo ra được 
sản phẩm du lịch độc đáo, du khách chủ yếu dừng chân tham quan do nằm trong quần 
thể của tổ chức không gian du lịch, có nơi du khách hoàn toàn không dừng chân như 
đền Nưa (đi Bến En) hay Nghè Vích (đi đền Bà Triệu),... 
 Tại một số khu điểm di tích ở Huế, khả năng kết nối và tự tạo sự hấp dẫn, độc 
đáo riêng cho điểm di tích là rất cao. Ngoài bản thân công trình di tích (gồm đơn nguyên 
kiến trúc, di vật, đồ thờ, văn tự, cổ thụ,...) thì những huyền thoại, giai thoại, chuyện kể 
có liên quan (hoặc có sẵn từ tư liệu lịch sử hoặc truyền ngôn) đều được lồng ghép khéo 
léo để tăng sức hấp dẫn cho di tích. Những điểm này, hầu như các di tích nói chung ở 
Thanh Hóa còn chưa được chú trọng, riêng hệ thống đền thờ cấp quốc gia ở Thanh Hóa 
thì việc tạo ra sản phẩm du lịch hỗ trợ từ các huyền tích, huyền thoại, chuyện kể còn rất 
mờ nhạt. Đây là một thiếu sót rất đáng bàn. Bởi lẽ, với công trình kiến trúc được gìn giữ 
tương đối nguyên vẹn, có giá trị cao về thẩm mỹ (vẻ đẹp kiến trúc, sự hấp dẫn giữa tổng 
thể kiến trúc, cảnh quan và môi trường), nhân vật được thờ có tính tiêu biểu mang tầm 
vóc quốc gia thì tại sao di tích lại ít người biết đến, chưa trở thành điểm du lịch hấp dẫn, 
lôi cuốn. Nhìn sang một số địa phương trong nước như Ninh Bình, Huế, Nghệ An ta 
thấy rằng, để di tích trở thành điểm du lịch thì bản thân sự nguyên vẹn của công trình là 
chưa đủ, nó còn cần sự sáng tạo của người làm văn hóa và người làm du lịch, thổi hồn 
vào để di tích được “sống”. 
 65 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 Trong số khoảng 70 đền thờ cấp quốc gia ở Thanh Hóa hiện nay, số đền thờ 
đang trở thành điểm du lịch đúng nghĩa không nhiều, thậm chí rất ít so với số lượng 
hiện có và có sự mâu thuẫn lớn giữa giá trị to lớn, nhiều mặt và khả năng khai thác thực 
tế trong du lịch. Có thể kể đến một số di tích như đền Độc Cước, đền Cô Tiên, đền Tô 
Hiến Thành, đền Bà Triệu, đền Nưa, đền Sòng, đền Lê Lợi, Thái miếu nhà Lê,... có số 
lượng người thăm viếng đông do nằm trong không gian du lịch nổi tiếng hay hoạt động 
hành hương, tâm linh của nhân dân hằng năm. Khả năng để trở thành điểm du lịch độc 
lập hầu như không khả thi. 
 Ngoài những thực trạng trên, sự quảng bá các di tích đền thờ cấp quốc gia này 
tại Thanh Hóa cũng chưa được chú trọng. Mặc dù nhân vật được thờ mang tầm vóc 
quốc gia, di tích đền thờ được giới nghiên cứu đánh giá cao về các mặt lịch sử, văn hóa, 
nghệ thuật, tâm linh,... nhưng hầu như chỉ người địa phương biết, chưa có sự quảng bá 
rộng rãi để du khách trong nước quan tâm tìm đến, đây là một hạn chế. Qua khảo sát các 
đền thờ cấp quốc gia phục vụ nghiên cứu đề tài, thực trạng chung cho thấy, chính quyền 
các địa phương trong tỉnh, địa bàn có di tích đền thờ cấp quốc gia mới chú trọng nhiều 
đến công tác bảo vệ (cử người địa phương trông coi, gìn giữ; duy trì tế lễ, lễ hội và các 
nghi thức tâm linh liên quan đến di tích...), chưa có biện pháp, chính sách cụ thể để 
quảng bá di tích hay xây dựng sản phẩm du lịch từ di tích. Dẫn đến nhiều nơi hoạt động 
du lịch còn “ngủ yên” chưa được đánh thức. 
 3. Đề xuất một số giải pháp góp phần phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc 
gia tại Thanh Hóa phục vụ phát triển du lịch 
 Để phát huy giá trị các đền thờ cấp quốc gia tại Thanh Hóa phục vụ phát triển du 
lịch tỉnh, thời gian tới Thanh Hóa cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau: 
 Một là, tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định số 2218/QĐ-UBND năm 2009 
phê duyệt dự án “Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Thanh Hoá đến 
năm 2020”; Quyết định số 492/QĐ-UBND năm 2015 phê duyệt “Chiến lược phát triển 
du lịch tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Đây là cơ sở pháp lý 
quan trọng để các cấp, ngành chức năng và chính quyền địa phương có kế hoạch bảo 
tồn, tôn tạo, khai thác thế mạnh, tiềm năng của di tích cho phát triển du lịch. Làm tốt 
công tác tổng kết đánh giá, kiến nghị cấp thẩm quyền kịp thời giải quyết, điều chỉnh 
những tồn tại, hạn chế, vướng mắc khi triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp 
luật của y ban Nhân dân tỉnh về phát triển du lịch tại địa phương. 
 Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân 
về giá trị của các đền thờ cấp quốc gia và vai trò của nó trong công tác giáo dục truyền 
thống cũng như trong hoạt động khai thác, phát triển du lịch. Tăng cường hoạt động 
66 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
quảng bá về giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ, tâm linh của hệ thống đền thờ 
cấp quốc gia ở Thanh Hóa trên các phương tiện truyền thông, các hội chợ, triển lãm du 
lịch lớn trong tỉnh, khu vực và toàn quốc. Các hoạt động quảng bá này phải hướng tới 
tính chuyên nghiệp cao. 
 Ba là, tập trung triển khai thi công mới, sửa chữa một số kết cấu hạ tầng quan 
trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với phát triển du lịch. Đầu tư tôn tạo, nâng 
cấp một số đền thờ cấp quốc gia có giá trị tiêu biểu, thẩm mỹ cao, đủ yếu tố cấu thành 
trọn vẹn sản phẩm du lịch độc đáo gồm vật thể và phi vật thể (tức là công trình kiến trúc 
nguyên vẹn, thẩm mỹ và các huyền tích, huyền thoại độc đáo có liên quan). 
 Bốn là, triệt để phát huy yếu tố huyền thoại, huyền tích độc đáo thuộc các đền 
thờ cấp quốc gia trong tỉnh như đền thờ Lê Lợi trong quần thể Khu di tích quốc gia đặc 
biệt Lam Kinh ở Thọ Xuân gắn với công nghiệp khai sáng vương triều Lê sơ và đánh 
đuổi giặc Minh của nghĩa quân Lam Sơn thế kỷ XV. Đền Độc Cước ở Sầm Sơn gắn với 
huyền thoại về dấu chân người khổng lồ bảo vệ dân biển; đền thờ An Dương Vương về 
tính bi tráng cha - con; chồng - vợ gắn với biến cố, cơ đồ quốc gia; sự bi thương trong 
vụ án đảo chính bất thành ở thành Tây Đô gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp anh dũng 
của Thượng tướng Trần Khát Chân; huyền thoại về giấc mộng thần trống Đồng ở đền 
Đồng Cổ. Tái hiện sức mạnh vô song của người anh hùng “thác đao” Lê Phụng Hiểu 
hay những suy tư, tâm sự thời thế của người anh hùng tha phương Đào Duy Từ,... Có 
thế mới làm cho di tích tăng sức hấp dẫn, lôi cuốn khách du lịch. 
 Năm là, từ thực tế quản lý và khai thác tiềm năng, thế mạnh các di tích lịch sử, 
văn hóa, danh thắng trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua; các cấp chính quyền địa 
phương và ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần tiếp tục đề xuất cơ chế, chính sách, 
kinh phí đầu tư kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, giải pháp bảo vệ các di tích đền thờ cấp 
quốc gia thiết thực và hiệu quả hơn nữa. Đã đến lúc, cấp ban ngành của tỉnh và chính 
quyền các địa phương trong tỉnh phải nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, thực chất, nếu coi 
hệ thống di tích là xương sống để quy hoạch, khai thác du lịch thì các di tích cấp quốc 
gia, trong đó có hệ thống đền thờ cấp quốc gia phải được coi là báu vật di sản cần bảo 
vệ ưu tiên. 
 Sáu là, chú trọng thu hút nguồn lực từ công tác xã hội hóa hoạt động du lịch để 
đầu tư, khai thác, phát huy tiềm năng lợi thế từ các đền thờ cấp quốc gia nhằm phát triển 
các sản phẩm du lịch mang đặc trưng văn hóa địa phương, tăng cường sức quảng bá, 
làm đòn bẩy phát triển du lịch toàn tỉnh. 
 Xã hội hóa hoạt động du lịch tại Thanh Hóa là xu thế tất yếu, nhưng để hoạt 
động này có hiệu quả và được tiến hành nhanh chóng phải khơi dậy sức dân. Để nguồn 
 67 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
lực trong dân trở thành hiện thực phải phổ biến rộng rãi việc quy hoạch phát triển du 
lịch trên địa bàn tỉnh, phải làm rõ giá trị nhiều mặt của các đền thờ cấp quốc gia cho 
nhân dân biết, nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức của toàn xã hội về lợi ích của 
phát triển du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tiếp đến là sự 
hướng dẫn và quản lý hoạt động du lịch của ngành chức năng phải xuất phát từ điều kiện 
cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà chế định các quy tắc rõ ràng, phù hợp với quy hoạch chung 
của tỉnh và điều kiện thực tế của vùng, miền. Khuyến khích người dân gìn giữ, sưu tầm, 
bảo vệ các giá trị văn hóa phi vật thể có liên quan đến các đền thờ cấp quốc gia này, bởi 
chúng góp phần làm trọn vẹn hơn nữa hình ảnh và giá trị nhiều mặt của di tích. 
 4. Kết luận 
 Hệ thống đền thờ cấp quốc gia ở Thanh Hóa là tài sản tinh thần, nhân văn to lớn, 
thể hiện truyền thống lịch sử văn hóa đáng quý và tự hào của địa phương. Trên thực tế, 
hệ thống các đền thờ này tập trung nhiều giá trị và nếu thực hiện đồng bộ công tác bảo 
tồn, gìn giữ cũng như sưu tầm bổ sung các giá trị liên quan, chủ yếu là giá trị phi vật thể 
gắn với di tích, được quy hoạch phát triển du lịch rõ ràng, khoa học trên cơ sở giải quyết 
hài hòa giữa bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch thì hiệu quả khai thác, phát huy trong 
hoạt động du lịch sẽ rất bền vững; vừa góp phần nâng cao đời sống kinh tế cho nhân 
dân, vừa góp phần quảng bá hình ảnh xứ Thanh trong mắt bạn bè trong nước và quốc tế. 
 Tài liệu tham khảo 
 [1]. Lê Xuân Giang, Lê Xuân Kỳ, Lê Ngọc Tạo, Lê Văn Viện (2013), Di tích họ 
Lê trên đất Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa. 
 [2]. Hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt khu Lam Sơn - Lam Kinh - 
Thanh Hóa (2012), Lý lịch di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh huyện Thọ 
Xuân, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. 
 [3]. Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa (2014), Thanh Hóa xưa và nay, số 5, 
tháng 7, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa. 
 [4]. Quyết định số 247/QĐ-UBND ngày 27/01/2004 của Chủ tịch UBND tỉnh 
Thanh Hóa về việc phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư bảo quản, tu bổ 
và phục hồi quần thể di tích Bà Triệu, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. 
 [5]. Quyết định số 3667/QĐ-UBND ngày 07/11/2012 của Chủ tịch UBND tỉnh 
Thanh Hóa về việc phê duyệt Đề cương quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững rừng 
đặc dụng Khu di tích lịch sử văn hóa đền Bà Triệu đến năm 2020. 
 [6]. Website: 
Phat-trien-du-lich-tinh-4nffcw.aspx 
68 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 PROMOTING THE VALUES OF NATIONAL TEMPLES 
 TO SERVE TOURISM DEVELOPMENT IN THANH HOA 
 Ha Dinh Hung, Ph.D student 
 Abstract: Among the worshiping structures in Thanh land, temples are 
considered the most typical. Many temples such as Le Hoan Temple (Tho Xuan), Ly 
Thuong Kiet Temple (Ha Trung), To Hien Thanh Temple, Trieu Viet Vuong Temple 
(Hoang Hoa), Giap Temple (Trieu Son), Tran Khat Chan Temple (Vinh Loc), etc are 
considered as architectural works with traditional wood carvings. These buildings, 
especially national temples, which have been ranked by the State, still have their 
historical, cultural, architectural and artistic values as very valuable sources for 
tourism development. 
 Key words: Thanh land, temple, value, tourism development 
(Người phản biện: TS. Lê Thị Thảo; ngày nhận bài: 25/8/2017; ngày gửi phản biện 
30/8/2017; ngày duyệt đăng 30/12/2017) 
 69 

File đính kèm:

  • pdfphat_huy_gia_tri_cac_den_tho_cap_quoc_gia_phuc_vu_phat_trien.pdf