Phật giáo xứ Thanh nhìn từ góc độ lịch sử
Phật giáo đối với đất nước nói chung, xứ Thanh nói riêng là một vấn
đề lịch sử văn hóa thú vị. Bước đi của lịch sử địa phương cũng như sắc thái văn hóa xứ
Thanh phản ánh nhiều nét ảnh xạ không nhỏ các tư tưởng triết học và văn hóa Phật
giáo. Từ hệ thống chùa chiền dày đặc (269 ngôi chùa) trên quê hương “tam vương nhị
chúa ”, vùng đất mà có lẽ tư tưởng Nho giáo có phần lấn át, vẫn sản sinh và tồn tại đến
ngày nay một di sản Phật giáo đáng kể. Các chùa Sùng Nghiêm, Linh Xứng, Hoa Long,
Hương Nghiêm là cả một “gia tài văn hóa ” lâu đời không phải địa phương nào cũng có
được. Ảnh hưởng của Phật giáo trên đất Thanh đến đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân, sự tham gia tích cực chủ động, có trách nhiệm vào vận mệnh đất nước và địa
phương là những tài sản đáng tự hào.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phật giáo xứ Thanh nhìn từ góc độ lịch sử
vào Việt Nam, các nhà sư Ân Độ đã thờ thần một bàn chân biểu thị cho đạo, diễn ra trong các năm 36, 37, 84, 159, 183...” [1, tr.79]. Để chứng minh luận điểm này, ngược dòng lịch sử cho thấy, thiết chế của đạo Phật ở Việt Nam ban đầu chưa phải là chùa chiền, tượng pháp mà khởi đầu việc thờ Phật bắt đầu từ thờ dấu chân Phật Tổ. Điều đó còn truyền lại câu chuyện nhà sư Cà Sa Đồ Lê ở chùa Dâu (Bắc Ninh) dựng một chân giảng kinh kệ và xoay mình theo hướng mặt trời. Tục thờ thần Độc Cước chính là ảnh xạ của tục thờ dấu chân của đạo Phật. Những di vật được tìm thấy ở Lạch Trường (Hậu Lộc), một trong những cửa biển lớn của khu vực Bắc Trung bộ, cũng là trung tâm kinh tế chính trị trù mật của xứ Thanh thời đầu công nguyên. Đáng kể là “cây đèn đồng Lạch Trường” được nhà khảo cổ học Thụy Điển, ông O. Janse tìm thấy năm 1935, trong một ngôi mộ gạch có niên đại vào những thế kỷ đầu công nguyên. Cây đèn đồng này có một đặc điểm kỳ lạ: Vừa là đèn, vừa là tượng mang dáng vẻ của một người đàn ông, nhưng hình dáng có nhiều chi tiết khác với đặc điểm nhân chủng Việt cổ mà tương đồng hơn với dáng vóc nam giới ở các vùng Trung Á hay Ân Độ, như: râu quai nón, mái tóc hình xoáy ốc, sống mũi nổi cao, môi trễ, rốn l ồ i. Theo lý giải của ông Janse, nhân vật chính của cây đèn hình người quỳ này thiếu đi tất cả đặc điểm của người Trung Hoa mà mang đặc điểm của Phật Buddha của Ân Độ. Sự hiện diện của các di vật này là minh chứng lịch sử đánh 73 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU dấu giao thoa văn hóa Việt - Ân đậm nét trong giai đoạn đầu Phật giáo du nhập vào Thanh Hóa. Bên cạnh đó, thông qua các tư liệu lịch sử được ghi chép trong sử sách, văn bia... thì từ thế kỷ thứ VII trở đi, Ái Châu (tên gọi của tỉnh Thanh Hóa giai đoạn đầu) nói riêng và Giao Châu nói chung đã bắt đầu du nhập hai phái Thiền Tông của Phật giáo Trung Quốc, đó là các phái Nam Phương và Quan Bích. Hai phái Thiền tông này là cơ sở chủ yếu của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ độc lập sau này. Thông qua các cứ liệu vừa nêu trên, có thể tạm cho phép khẳng định rằng, vào khoảng thế kỷ thứ VI, thứ VII sau công nguyên, ở Ái Châu (Thanh Hóa), đạo Phật đã thịnh hành, với những “ngôi chùa nổi tiếng được ban xá lị để dựng tháp thờ” [3, tr. 664]. Nhưng thời kỳ này, Phật giáo Thanh Hóa không hình thành một môn phái riêng biệt, không có những trung tâm lớn với cả một hệ thống như các địa phương khác trên cả nước, mà chỉ dừng lại ở những hang, chùa nhỏ hẹp. Điểm khác biệt rõ rệt là Phật giáo Thanh Hóa buổi đầu, thích nghi với những cư dân vùng biển hơn là những người dân làm nông nghiệp ở vùng Bắc Bộ [1, tr. 79, 80]. Thời kỳ Ngô, Đinh, tiền Lê, triều đình đều coi Phật giáo là tôn giáo chính thức, tạo điều kiện mở rộng và phát triển đạo Phật. Do đó, Phật giáo đã lan rộng đến nhiều vùng trong nước mà trung tâm là Bắc sông Hồng với các chùa nổi tiếng như Luy Lâu, Kiến Sơ... đồng thời có thêm các trung tâm mới ở nam sông Hồng như Đại La, chùa Khai Quốc/Trấn Quốc (Thăng Long, Hà Nội); ảnh hưởng của Phật giáo cũng không ngừng được mở rộng trong đời sống nhân dân, kết hợp chặt chẽ với tín ngưỡng dân gian cổ truyền... Trong điều kiện như vậy, Phật giáo ở Thanh Hóa cũng đã có bước phát triển mới. Thời kỳ này, cạnh các cửa biển Lạch Trường (Hậu Lộc), Bạch Câu, Thần Phù (Nga Sơn), Hà Trung, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Vĩnh L ộ c . đã có các ngôi chùa lớn được tạo dựng điển hình như chùa Hương Nghiêm, chùa Trinh Nghiêm, và chùa Minh Nghiêm (thuộc Thiệu Hóa và Đông Sơn ngày n a y ). Các chùa này ra đời sớm và không ngừng được tu sửa, trùng tu qua các giai đoạn lịch sử. Theo sử liệu, thời tiền Lê, khi Vua Lê Hoàn đi tuần du đến Giang Ngũ huyện, thấy chùa chiền đổ nát liền cho tu sửa lại. Đến thời Lý, khi Vua Lý Thái Tông đi tuần phương Nam, tới Ái Châu, ghé thăm cảnh chùa, thấy cột kèo đã gãy cũng bỏ sức trùng tu. Những sử liệu này cho thấy, đến trước thế kỷ X, nhiều ngôi chùa đã ra đời trên đất Thanh Hóa, đánh dấu sự du nhập và phát triển từ rất sớm của đạo Phật ở tỉnh Thanh. Thời Lý, Trần, xã hội Việt Nam đã đạt đến sự ổn định, nhà nước Trung ương tập quyền được tổ chức và ngày càng hoàn bị. Vua Lý Công Uẩn, người sáng lập ra nhà Lý 74 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU là người đã lớn lên trong chùa, trong cuộc vận động lên ngôi của ông, cũng có sự tham gia và ủng hộ của các nhà sư như: sư Vạn Hạnh, sư Đa Bảo... Do đó, khi lên ngôi, nhà vua đã ban nhiều sắc lệnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Phật giáo phát triển. Dưới sự ủng hộ và cho phép của nhà vua, chùa chiền được mở rộng, số lượng tăng ni phật tử ngày càng tăng lên. Nhà vua còn sai sứ sang Trung Quốc xin kinh Tam Tạng về truyền dạy trong chùa, mở rộng đến chúng sinh. Do đó, trong triều đình thì đạo Phật là rường cột, ngoài xã hội thì tràn ngập không khí tu hành, “dân chúng quá nửa làm sãi, chỗ nào cũng có chùa chiền” (lời bàn của Lê Văn Hưu trong Đại Việt Sử ký toàn thư). Đây cũng là thời kỳ vàng son của Phật giáo xứ Thanh. Hàng loạt các ngôi chùa được xây dựng mới hoặc tu sửa lại, các sinh hoạt văn hóa cũng như tập tục dân gian đều mang đậm sắc thái đạo Phật, điều này góp phần phong phú hơn đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân xứ Thanh. Trong thời kỳ này, vùng đồng bằng và ven biển phía Bắc Thanh Hóa đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn của khu vực, với các cổ tự nổi tiếng như: Chùa Hương Nghiêm (Giáp Bối Lý) một kiến trúc bề thế với tâm niệm “ngàn năm không mai một” như văn bia ở chùa đã ghi tạc; chùa Báo Ân (núi An Hoạch) được Lý Thường Kiệt sai Vũ Thừa Thao đi dò tìm đá suốt 19 năm mới xây cất bằng sự hưng công của nhân dân cả vùng; chùa Linh Xứng xây dựng từ năm 1008 đến năm 1010 dưới chân núi Ngưỡng Sơn (nay là xã Hà Ngọc, Hà Trung) hoành tráng tới mức “trước cửa chính treo chuông vàng, một tiếng chày kình ngân vang khắp chốn” (Thơ văn Lý - Trần); chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (Hậu Lộc) được trùng tu trên nền cũ, năm 1116 Lý Nhân Tông đi tuần du phương Nam đã nghỉ lại Thanh Hóa. Để kỷ niệm chuyến đi này của nhà vua, Chu Công đã xuất lĩnh dân cư, già trẻ giúp sức xây dựng lại chùa; chùa Đông Sơn (ở làng Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa) dựng dưới chân núi Long Đọi do danh sư Quan Thiệu họ Phạm trụ trì xây cất ở một vùng sơn thủy hữu tình, là chốn tiêu dao của Vua Trần Dụ Tông, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông...; chùa Hưng Phúc (Quảng Hùng, Quảng Xương) là ngôi chùa không chỉ là nơi tu hành, tụng kinh niệm Phật, mà còn là chứng tích ghi nhớ chiến công của quân và dân Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông năm 1285... Từ thời Lê sơ trở đi, Nho giáo được triều đình trọng dụng, ngày càng khẳng định vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội người Việt. Phật giáo không còn giữ vai trò quốc giáo, nhưng vốn đã ăn sâu bám rễ trong tinh thần, tình cảm người dân, nên vẫn lưu truyền với đạo đức truyền thống của dân gian trong nước nói chung, của người dân quê Thanh nói riêng. Thời Lê sơ với những thành tựu rực rỡ sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, đã xây dựng một chế độ phong kiến Trung ương tập quyền vững mạnh, tạo 75 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU cho đất nước một thời “Thiên hạ âu ca”. Tuy nhiên, giai đoạn cuối, nhà Lê đã để mất ngôi về tay nhà Mạc, dẫn đến tình trạng chiến tranh Nam Bắc triều tranh giành quyền lực liên miên. Chiến tranh Nam Bắc triều đã đẩy người dân vào cảnh loạn ly, khốn đốn. Đây cũng là thời kỳ mà tư tưởng, tình cảm của nhân dân đối với Phật giáo được hồi sinh, họ đã tìm thấy ở đạo Phật niềm an ủi tinh thần trong cảnh đất nước loạn lạc, cuộc sống khổ cực, lầm than. Các quan niệm của đạo Phật như: Đời là bể khổ, thế gian vô thường, từ bi cứu khổ, nhân quả nghiệp báo... được dân gian tiếp nhận và biến đổi theo quan niệm và đạo đức dân gian. Chính các vua chúa nhà Trịnh, Nguyễn vì muốn kéo các phật tử theo mình mà cũng dần trở nên mộ đạo, thúc đẩy nhiều chủ trương phục hồi và phát triển Phật giáo. Các chúa Trịnh như: Trịnh Tạc, Trịnh Cương, Trịnh Giang... đều cho lập chùa mới và tu sửa những chùa cũ đã hư hỏng. Trên đất Thanh Hóa, hàng loạt các ngôi chùa được tu sửa, dựng mới. Tiêu biểu là chùa Hoa Long (Vĩnh Thịnh, Vĩnh Lộc), ngôi chùa còn lưu lại nhiều hiện vật kiến trúc gỗ, đá có giá trị nghệ thuật cao, trở thành một trong những biểu tượng độc đáo của kiến trúc gỗ truyền thống Thanh Hóa. Dưới thời Nguyễn, Nho giáo được nhà nước ra sức đề cao, triều đình đã tìm cách đưa lên vị trí độc tôn và bài xích, đả kích các tôn giáo khác. Để hướng triều thần và nhân dân tập trung và trung thành với tư tưởng trung quân, có những vị vua thậm chí đã xa lánh, hoài nghi đạo Phật. Mặc dù, không được triều đình xem trọng, nhưng Phật giáo vẫn được nhân dân tôn thờ, tiếp thu và phát triển như một truyền thống tín ngưỡng đã có. Một loạt các chùa cũ đã được nhân dân đóng góp và bỏ công sức trùng tu như: chùa Dâu, Bút Tháp, Phật Tích, Tây Phương... Ở Thanh Hóa, các chùa Sùng Nghiêm, Hương Nghiêm, Long Cảm... cũng đã được các Phật tử hưng công sửa chữa. Đến thời kỳ thuộc Pháp, Phật giáo đã lan tỏa hết các vùng, miền trên đất Thanh Hóa. Hầu hết các xã các vùng ở trung du, đồng bằng Thanh Hóa đều có chùa, đồng thời chùa được phát triển lên cả các huyện miền núi như: Cẩm Thủy, Thạch Thành, Ngọc Lặc, Lang Chánh... Riêng ở Cẩm Thủy, có tới hàng chục ngôi chùa được xây dựng hòa vào cảnh trí thiên nhiên trong các hang động núi đá vôi, cạnh các dòng suối. Một hệ thống chùa chiền được chú trọng phát triển bên cạnh các đình làng, nghè, phủ, đền, miếu nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa, tâm linh phong phú, đa dạng của nhân dân. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, với tinh thần “cả nước cho tuyền tuyến”, Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Thanh Hóa nói riêng đều chú trọng vào công tác phục vụ cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, giành lại nền độc lập của dân tộc hơn là mở rộng, phát triển Phật giáo. Hưởng ứng cuộc đấu tranh của toàn dân 76 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU tộc, nhiều nhà sư trẻ đã “cởi áo cà sa, khoác chiến bào” ra nhập quân đội, dũng cảm không ngại gian khó, hy sinh chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Các nhà sư cao niên ở địa phương thì đứng ra đoàn kết nhân dân, giúp đỡ bộ đội, động viên các Phật tử tăng gia sản xuất, chống chiến tranh phá hoại của kẻ địch, góp phần vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đồng thời, nhiều ngôi chùa trên đất Thanh Hóa là cơ sở cách mạng, là nơi che dấu, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng, thương bệnh binh, là những địa chỉ tin cậy và cơ sở liên lạc của cách mạng xứ Thanh như: chùa Trần (Hà Trung) là nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của huyện Hà Trung; chùa Vĩnh Thái (Nông Cống) là địa điểm liên lạc và là nơi che chở cho các chiến sĩ cách mạng; chùa Đông Tác là ga tạm, nơi tập kết hàng hóa chi viện cho tiền tuyến; chùa Mật Đa là trạm cứu chữa thương binh trong những ngày Hàm Rồng rực lửa... Thời kỳ chống Mỹ, trong cuộc chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng huyết mạch giao thông quan trọng của cả nước, biểu dương ý chí quật cường của quân dân Thanh Hóa, đặc biệt là quân dân Nam Ngạn, đã có sự tham gia của vị hòa thượng Thích Đàm Xuân cùng những tín đồ phật giáo góp phần làm nên chiến thắng 3,4/4/1965 đánh bại cuộc chiến tranh dùng không quân phá hoại miền Bắc Việt Nam của đế quốc Mỹ. Chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Đây là yếu tố và bối cảnh thuận lợi, khơi dậy nguyện vọng thiết tha thống nhất Phật giáo của toàn thể tăng ni, phật tử. Để thực hiện nguyện vọng thống nhất của toàn thể tăng ni, phật tử cả nước, Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam đã được tổ chức từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội, Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức thành lập trong sự đoàn kết nhất trí cao của tăng ni, phật tử Việt Nam và của toàn thể đại hội. Ở Thanh Hóa, thực hiện nghị quyết Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ nhất, tăng ni, phật tử tỉnh Thanh Hóa đã tích cực vận động thống nhất các sơn môn, pháp phái với sự hỗ trợ, giúp đỡ của Trung Ương giáo hội và các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Ban đại diện Tỉnh hội Phật giáo Thanh Hóa được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1984, tại chùa Thanh Hà, phường Nam Ngạn (nay là phường Trường Thi, thành phố Thanh Hóa). Năm 1992, Ban đại diện được nâng cấp thành Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Thanh Hóa. Sự ra đời của Tỉnh hội Phật giáo Thanh Hóa không những đánh dấu sự trưởng thành, phát triển của Phật giáo Thanh Hóa, mà còn khẳng định sự đóng góp không nhỏ của Phật giáo trong công cuộc xây dựng Thanh Hóa trên con đường hội nhập và phát triển theo phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. 77 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, với điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng ổn định, thì việc đáp ứng đời sống tinh thần, cũng như nhu cầu tâm linh của con người càng trở nên cần thiết. Đây là cơ duyên để đạo Phật càng được đông đảo quần chúng nhân dân tiếp nhận, từ đó mà có điều kiện phát triển mạnh mẽ với hệ thống chùa chiền dày đặc. Đồng thời trong toàn tỉnh, có tới hơn 2 triệu người dân là những tín đồ và quần chúng Phật giáo (chiếm 50% - 60% dân số trong toàn tỉnh). Công cuộc xây dựng tỉnh Thanh Hóa thời kỳ đổi mới hiện nay, Phật giáo Thanh Hóa đã tham gia vào mọi lĩnh vực như văn hóa, kinh tế, chính trị... Điều này đã khẳng định vị trí, vai trò và những đóng góp không nhỏ của Phật giáo trong đời sống văn hóa của người dân tỉnh Thanh trong giai đoạn hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] . Ban Nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa (1994), Lịch sử Thanh Hóa (Tập 2), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [2] . Bộ môn khoa học về Tín ngưỡng và tôn giáo (1997), Đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam, Hà Nội. [3] . Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2004), Địa chí Thanh Hóa (Tập 2), Nxb Khoa học Xã hôi, Hà Nội. [4] . Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà Nội. [5] . Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. RESEARCH ON BUDDHISM IN THANH LAND FROM THE PERSPECTIVE OF HISTORY Nguyen Thi Thuy Abstract: Buddhism in the country in general and in Thanh land in particular is an interesting cultural-historical issue. The development of local history and cultural nuances of Thanh land reflect many imprints of philosophical thoughts and Buddhist culture. With a dense system of 269 pagodas in the homeland of "three Kings two Lords", this region covered with Confucian ideas has produced and remained a Buddhist heritage so far. Sung Nghiem, Linh Xung, Hoa Long and Huong Nghiem 78 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU pagodas are considered to be a longstanding cultural treasure which cannot be easily owned by any locality. Influence of Buddhism to the cultural and spiritual life ofpeople as well as the active and responsible participation in the destiny of the country and the locality are precious assets. 79
File đính kèm:
- phat_giao_xu_thanh_nhin_tu_goc_do_lich_su.pdf