Pháp luật về thừa kế qua góc nhìn từ một vụ án tranh chấp chia thừa kế
Chế định thừa kế là một chế định đặc biệt quan trọng trong ngành luật dân sự
Việt Nam, điều chỉnh một loại quan hệ xã hội hết sức phổ biến, gần gũi với
thực tiễn cuộc sống. Trên thực tế, số vụ tranh chấp về thừa kế luôn chiếm tỷ
trọng lớn trong các tranh chấp dân sự. Đặc biệt, các tranh chấp về thừa kế hết
sức đa dạng và có tính phức tạp cao, đôi khi còn tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau trong quá trình Tòa án áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp. Trên
cơ sở nghiên cứu một bản án cụ thể về giải quyết tranh chấp về thừa kế tài sản
là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất, bài viết tập trung bình luận và đưa ra
phương hướng áp dụng pháp luật về thừa kế trong một tình huống cụ thể.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Pháp luật về thừa kế qua góc nhìn từ một vụ án tranh chấp chia thừa kế
rõ ràng về việc “những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau” (khoản 2 Điều 651 BLDS). Như vậy, di sản thừa kế cần được chia đều cho 05 người con là 05 người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất. Điều 660 BLDS năm 2015, di sản thừa kế nêu trên phải được phân chia theo pháp luật. Yêu cầu của bà M về việc di sản thừa kế phải được chia làm N.T.T.Trang/ No.20_Mar 2021|p.85-91 06 phần bằng nhau vì lý do nuôi dưỡng và thờ cúng cha mẹ là hoàn toàn thiếu cơ sở pháp lý. Thứ nhất: Việc bà M chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ nên đòi chia thêm di sản thừa kế Căn cứ vào quy định về Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng tại khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”. Có thể thấy, việc bà M chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ được coi là nghĩa vụ và quyền của con đối với cha mẹ. Không những được ghi nhận như nghĩa vụ đương nhiên, một cách hành xử bắt buộc được Nhà nước đảm bảo thực hiện, việc con cái chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ còn thể hiện đạo hiếu của con với cha mẹ, đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục, thể hiện văn hóa, đạo lý của người Việt Nam. Thậm chí khi cha mẹ khó khăn, không có tài sản gì, con cái cũng phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ này mà không được phép lơ là hay có những hành vi bỏ mặc, ngược đãi cha mẹ. Trong vụ án này, các đương sự đều thừa nhận bà M do ở cùng nên hàng ngày bà có điều kiện chăm sóc trực tiếp cho hai cụ C và H từ năm 2015 đến năm 2017. Tuy nhiên, cả hai cụ đều có lương hưu để đảm bảo các chi phí sinh hoạt, đồng thời cả bốn người con còn lại đều luôn quan tâm, thăm nom hai cụ chứ không hề vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ. Như vậy có thể kết luận, pháp luật không có quy định nào về việc người nào ở cùng với cha mẹ và có công chăm sóc cha mẹ khi còn sống sẽ được hưởng phần di sản nhiều hơn những người thừa kế cùng hàng khác trong trường hợp chia thừa kế theo pháp luật. Vì vậy, bà M không thể lấy mình có công chăm sóc cho bố mẹ khi còn sống để đòi hỏi về việc nhận được suất di sản thừa kế gấp đôi người khác. Thứ hai, việc bà M có công thờ cúng cha mẹ nên bà M yêu cầu được chia thêm một phần di sản thừa kế. Thờ cúng tổ tiên là phong tục đã có từ rất xa xưa của người Việt và hiện nay vẫn được coi trọng. Việc thờ cúng tổ tiên được thực hiện trên cơ sở của quan niệm mang tính chất đạo đức và văn hoá: tôn trọng và biết ơn công sinh thành, dưỡng dục; con người có nguồn cội, tổ tông vì vậy con, cháu phải tôn trọng và biết ơn những thế hệ cha ông đã sinh ra mình. Thờ cúng tổ tiên, di sản thờ cúng có ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất mà còn có giá trị về mặt tinh thần. Trong vụ án này, cụ H và cụ C chết không để lại di chúc, nên không xác định được di sản dùng vào việc thờ cúng và chỉ định người được giao quản lý để thực hiện việc thờ cúng theo quy định tại khoản 1 Điều 645 BLDS năm 2015. Điều 645. Di sản dùng vào việc thờ cúng “1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.” Pháp luật không có quy định bắt buộc nào về vấn đề này, cũng không có quy định nào về việc người thờ cúng cha mẹ được hưởng phần di sản nhiều hơn những người thừa kế cùng hàng khác (trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 645 BLDS). Xuất phát từ các lý do trên, yêu cầu của bà M về việc nhận gấp đôi suất thừa kế so với người khác là hoàn toàn thiếu cơ sở pháp lý, Tòa án bác bỏ yêu cầu này là có cơ sở pháp lý. (2) Khi những người thừa kế đều mong muốn nhận thừa kế bằng hiện vật thì Tòa án giải quyết như thế nào? Có thể thấy, căn nhà số 19 và đất gắn liền thửa đất số 139, tờ bản đồ số 48, tọa lạc như đã nêu trên có diện diện tích nhỏ là 142.7 m2, không thể chia đều bằng hiện vật. Trong khi đó, cả bà N và bà M đều có nguyện vọng được nhận thừa kế bằng hiện vật là nhà và đất, hai ông bà T và L mong muốn nhận kỷ phần thừa kế bằng tiền, còn ông H tặng cho suất thừa kế của mình cho bà N. Theo quy định tại khoản 2, Điều 660 BLDS: “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật, nếu không thể chia đều bằng N.T.T.Trang/ No.20_Mar 2021|p.85-91 hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia”. Quy định trên cho thấy pháp luật hoàn toàn tôn trọng ý nguyện và sự tự do thỏa thuận của những người thừa kế. Việc ai nhận thừa kế bằng hiện vật trong trường hợp không thể chia đều di sản bằng hiện vật hoàn toàn do những người thừa kế bàn bạc và quyết định. Mặc dù cả ba ông bà L, T, H đều nhất trí giao căn nhà cho bà N để bà N thờ cúng tổ tiên, nhưng bà M không đồng ý nên các đương sự chưa có sự thỏa thuận thống nhất. Vì vậy, việc giao di sản bằng hiện vật cho ai phụ thuộc vào quyết định của Tòa án. Trong trường hợp này, bà N được nhận hai phần (do có thỏa thuận tặng cho giữa ông H và bà N), trong khi đó bà M chỉ được nhận một suất thừa kế - đây là yếu tố thứ nhất để Tòa án cân nhắc chia thừa kế bằng hiện vật cho bà N. Ngoài ra còn một yếu tố nữa để Tòa án xem xét - đó là vấn đề định giá di sản thừa kế được sử dụng làm căn cứ để chia thừa kế cho các đồng thừa kế. Trong vụ án này, di sản thừa kế được định giá theo giá trị trường là: 2.613.655.000 đồng (hai tỷ sáu trăm mười ba triệu sáu trăm năm mươi lăm nghìn) và được định giá theo khung giá nhà nước là 618.754.000 đồng (sáu trăm mười tám triệu bảy trăm năm mươi tư nghìn đồng). Bà N sẵn sàng đồng ý trả kỷ phần thừa kế cho những người thừa kế khác với giá trị di sản thừa kế được tính theo giá thị trường, trong khi bà N chỉ đồng ý trả kỷ phần thừa kế cho những người thừa kế khác với giá trị di sản thừa kế được tính theo giá nhà nước (giá thị trường cao hơn giá Nhà nước số tiền 1.994.900.000 đồng). Như vậy, nếu chia thừa kế cho bà N bằng hiện vật thì ông H, bà L, bà M mỗi người được chia thừa kế với một kỷ phần trị giá là: 522.731.000 (năm trăm hai mươi hai triệu bảy trăm ba mươi mốt nghìn), là có lợi hơn rất nhiều cho những người thừa kế khác nếu phải nhận một kỷ phần mà bà M chấp nhận trả trị giá 123.750.000 (một trăm hai mươi ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn). Từ các căn cứ nêu trên, Tòa đã tuyên án cho bà N nhận thừa kế bằng hiện vật, bà M có trách nhiệm giao trả nhà đất nêu trên cho bà N. Sau khi nhận thừa kế bằng nhà và đất, bà N có trách nhiệm trả giá trị kỷ phần thừa kế bằng tiền cho những người thừa kế khác gồm bà M, bà L, ông T mỗi người 01 kỷ phần di sản của cụ H và cụ C có tổng giá trị số tiền 2.613.655.000 đồng (mỗi kỷ phần tương ứng với số tiền 522.731.000 đồng). 4. Một số vướng mắc, tồn tại và phương hướng hoàn thiện pháp luật trong việc phân chia di sản thừa kế 4.1. Vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng Về căn cứ xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng: Di sản dùng vào việc thờ cúng một người, hay các thành viên đã chết của gia đình, dòng họ được xác lập từ nhiều căn cứ khác nhau, nhưng pháp luật quy định căn cứ xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng do một người để lại theo di chúc và căn cứ này có ý nghĩa pháp lý trong việc giải quyết những tranh chấp liên quan đến di sản dùng vào việc thờ cúng do người lập di chúc để lại. Ý nguyện của người chết thể hiện trong di chúc về việc định đoạt di sản thờ cúng được coi là căn cứ pháp lý duy nhất để xác lập có hay không việc di sản được dùng vào việc thờ chúng. Còn đối với trường hợp thừa kế theo pháp luật, chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự không có quy định nào về việc người thờ cúng cha mẹ được hưởng phần di sản nhiều hơn những người thừa kế cùng hàng khác. Trong vụ án này, bà M không phải là người thừa kế theo di chúc, không được bố mẹ bà để lại một phần di sản và giao cho bà dùng vào việc thờ cúng. Bà M chỉ là một người thừa kế giống như các đồng thừa kế khác, được nhận một suất thừa kế theo luật. Cách phân chia này dựa trên cơ sở pháp lý vững chắc là điều 645 Bộ luật dân sự 2015. Tuy nhiên trên thực tế, người dân do thiếu hiểu biết pháp luật nên vẫn có những trường hợp giống bà M - hiểu sai về vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng. Chính vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, các Tòa án cần thống nhất cách giải quyết, dựa trên điều 645 Bộ luật dân sự 2015 để xác lập di sản vào việc thờ cúng. 4.2. Vấn đề chia di sản bằng hiện vật Hiện nay, chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự 2015 mới chỉ đề cập đến việc phân chia di sản bằng hiện vật tại khoản 2 Điều 660 như sau: N.T.T.Trang/ No.20_Mar 2021|p.85-91 Khoản 2, Điều 660, BLDS 2015 quy định: “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật, nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật, nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia”. Theo quy định này, trước tiên những người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án phân chia di sản bằng hiện vật. Nếu những người thừa kế không có thỏa thuận nào khác trong việc phân chia di sản bằng hiện vật thì di sản được chia đều cho họ. Trong trường hợp di sản bao gồm nhiều hiện vật, mỗi hiện vật có giá trị khác nhau, thì trước khi chia di sản phải xác định giá trị của từng hiện vật, trên cơ sở cùng định giá của những người thừa kế. Mặc dù pháp luật đã có quy định nhưng do quy định còn chưa thực sự hoàn thiện dẫn việc chia di sản bằng hiện vật vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cụ thể: (1) Việc người nào nhận phần nào cụ thể của di sản cũng là một vấn đề cần được giải quyết, vì di sản rất đa dạng, các phần bằng hiện vật có thể có giá trị bằng nhau nhưng bản chất (tính năng) của từng phần không luôn giống nhau (phần là quyền sử dụng đất, phần là nhà, phần là nhà đất). Ngoài ra, có những vật theo tính chất là vật chia được, nhưng vật khi phân chia trong hoàn cảnh cụ thể thì được xác định là vật không chia được (như diện tích một ngôi nhà là vật chia được nhưng ngôi nhà đó có diện tích nhỏ nếu chia diện tích nhà cho những người thừa kế thì ngôi nhà không thể sử dụng được). Trong trường hợp một số người đều muốn nhận bằng hiện vật, trong khi đó di sản không thể chia bằng hiện vật, thì cũng cần phải xác định ai nhận bằng hiện vật (người không nhận bằng hiện vật sẽ được nhận bằng giá trị). Vấn đề này còn bị bỏ ngỏ, việc giải quyết hoàn toàn phụ thuộc vào cách áp dụng pháp luật của Tòa án. (2) Vấn đề định giá di sản thừa kế là hiện vật vẫn tồn tại rất nhiều vướng mắc, đơn cử như trường hợp những người thừa kế không thỏa thuận được việc định giá, không thống nhất được việc lựa chọn cơ quan nào là cơ quan định giá tài sản. Như trong vụ án được nghiên cứu ở trên, có hai cơ quan tham gia vào việc định giá: một là Công ty cổ phần định giá bất động sản và hai là Tòa án. Pháp luật chưa quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền định giá mà hoàn toàn phụ thuộc và sự lựa chọn của các đương sự cũng như phụ thuộc vào giai đoạn giải quyết vụ án. Chính vì thiếu quy định pháp luật, nên Tòa án sẽ xem xét và lựa chọn phương án nào có lợi nhất cho số đông các đương sự, ví dụ lựa chọn kết quả định giá cao nhất để chia bằng giá trị cho các đương sự. Trường hợp kết quả định giá không được tất các các đương sự chấp nhận thì việc giải quyết vụ án được thực hiện như nào vẫn là một vấn đề mà pháp luật còn bỏ ngỏ. Qua phân tích ở trên, có thể thấy pháp luật hiện hành còn thiếu quy định cụ thể về tiêu chí người nhận di sản thừa kế bằng hiện vật, đồng thời thiếu hướng dẫn cụ thể về vấn đề định giá di sản thừa kế. Các nhà làm luật cần nghiên cứu để đưa ra tiêu chí rõ ràng về việc ai sẽ được nhận di sản bằng hiện vật, có thể xem xét để luật hóa các tiêu chí sau: chia di sản bằng hiện vật cho người thừa kế được hưởng phần thừa kế nhiều nhất (tương tự trường hợp bà N trong vụ án này); người nào có hoàn cảnh khó khăn nhất mà việc nhận di sản bằng hiện vật có thể giúp giải quyết khó khăn đó (ví dụ người thừa kế không có nơi ở sẽ được ưu tiên chia di sản bằng nhà ở); người thừa kế nào có đóng góp nhiều nhất cho việc tạo lập di sản Về vấn đề định giá, cần bổ sung thêm hướng dẫn chi tiết về cơ quan có thẩm quyền định giá tài sản; dự liệu hậu quả pháp lý trong trường hợp kết quả định giá không được các đương sự chấp nhận. 5. Kết luận Quyền thừa kế là một chế định trong hệ thống pháp luật dân sự của nước ta, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi, quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền, nghĩa vụ của người thừa kế. Vụ án phân chia di sản thừa kế nêu trên có nội dung tương đối đơn giản, tuy nhiên nội dung vụ án hết sức gần gũi và xảy ra khá phổ biến trong thực tế cuộc sống. Qua việc phân tích các quy định pháp luật cũng như cách giải quyết của Tòa án, chúng ta có thể khắc phục một cách hiểu sai hiện nay của một bộ phận người dân - đó là khi con cái chăm sóc, thờ cúng cha mẹ thì sẽ mặc nhiên được chia thừa kế nhiều hơn so với các đồng thừa kế khác. Đồng thời, cách giải quyết của Tòa án trong vụ án này (định giá di sản thừa kế theo hướng có lợi nhất cho các đương sự) cũng là một yếu tố để các nhà N.T.T.Trang/ No.20_Mar 2021|p.85-91 làm luật cân nhắc và xây dựng quy định pháp luật làm cơ sở giải quyết thống nhất cho các vụ việc tương tự về sau. REFERENCES 1. Assoc. Prof. Ph.D Nguyen Van Cu, Assoc. Prof. Ph.D Tran Thi Hue (2017), Scientific commentary of Vietnam Civil Code 2015, Cong an nhan dan Publisher. 2. Tuong Duy Luong (2019), Civil Legal and trial practice, Chinh tri quoc gia Publisher. 3. Phùng Bích Ngọc (2020), Completion of the legal provisions on conditional wills, Dan chu & Phap luat magazine, No 11 (344) November 2020. 4. Danh Pì Sách, Nguyễn Trường Thọ (2020). Completing regulations on inheritance distribution, Cong Thuong Industry and Trade magazine. Accessed on: January 19 2021. From dinh-phap-luat-ve-phan-chia-di-san-thua-ke- 72436.htm 5. Soc Trang People’s Court (07.9.2020), Judgment No.32/2020/DS-ST about “inheritance distribution dispute case” Accessed on: Octorber 17 2020. From https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta602867t1cvn/ chi-tiet-ban-an.
File đính kèm:
- phap_luat_ve_thua_ke_qua_goc_nhin_tu_mot_vu_an_tranh_chap_ch.pdf