Phân tích phạm vi áp dụng của Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và khuyến nghị áp dụng cho Việt Nam
Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa (CISG 1980) đã có hiệu lực ở Việt Nam
từ 01/01/2017. Bài viết tập trung phân tích những quy định của Công ước về phạm vi áp dụng
thông qua một số trường hợp tranh chấp, từ đó đưa ra khuyến nghị áp dụng các điều khoản về
phạm vi áp dụng cho các cơ quan kiểm sát, xét xử cũng như doanh nghiệp của Việt Nam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích phạm vi áp dụng của Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và khuyến nghị áp dụng cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích phạm vi áp dụng của Công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và khuyến nghị áp dụng cho Việt Nam
lệ đóng góp của nguyên vật liệu mà người mua cung cấp đối với quá trình sản xuất hàng hóa. Trong một vụ việc diễn ra vào năm 1995 giữa người bán Hungary và người mua Úc liên quan đến hợp đồng mua bán container18, Tòa trọng tài của Hungary đã sử dụng phương pháp định lượng thuần túy trong bối cảnh giải thích khoản 1 Điều 3 của CISG 1980. Tòa trọng tài nhận định người mua đã cung cấp kim loại và phụ kiện cần thiết để sản xuất các thùng chứa. Ví dụ, người mua đã cung cấp nguyên liệu và phụ kiện với giá trị 23.000 sA để sản xuất 12 container, tức là xấp xỉ 2.000 sA cho mỗi container. Trong khi đó, giá trung bình của một thùng chứa được sản xuất là từ 12.000 sA đến 20.000 sA. Do đó, không thể nói rằng nguyên vật liệu người mua cung cấp là một phần quan trọng đối với quá trình sản xuất các container. Ngoài ra, một số Tòa án cho rằng các hướng dẫn, thiết kế hoặc thông số kỹ thuật này được xem là các “nguyên vật liệu” phục vụ cho quá trình sản xuất (nguyên vật liệu có thể tồn tại ở dạng hữu hình hoặc vô hình), do đó, các Tòa án vẫn xem xét tiêu chí “cung ứng phần lớn” tại khoản 1 Điều 3 để xác định phạm vi áp dụng của CISG 198019. Một số Tòa án khác nhận thấy các thiết kế hay thông số kỹ thuật không được coi là “các nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất hoặc chế tạo hàng hóa” theo nghĩa tại Điều 3.1 của Công ước20. Trường hợp 2: Hợp đồng bao gồm nghĩa vụ giao hàng và nghĩa vụ cung ứng dịch vụ Trong thực tiễn của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, ngày càng nhiều các hợp đồng được 18 CLOUT case No. 164 Arbitration—Arbitration Court attached to the Hungarian Chamber of Commerce and Industry, Hungary, 5 December 1995, Nguồn truy cập: https://cisgw3.law.pace.edu/ cases/951205h1.html, truy cập ngày 16/09/2020 19 CLOUT case No. 157 [Cour d’appel Chambéry, France, 25 May 1993]. Nguồn truy cập: https:// cisgw3.law.pace.edu/cases/930525f1.html, truy cập ngày 17/09/2020 20 CLOUT case No. 331, Handelsgericht des Kantons Zürich, Switzerland, 10 February 1999. Nguồn truy cập: https://cisgw3.law.pace.edu/cases/990210s1. html, truy cập ngày 17/09/2020 ký kết dưới hình thức “hỗn hợp”, trong đó một phần hợp đồng liên quan đến việc giao hàng hóa và phần còn lại quy định các nghĩa vụ về dịch vụ như giám sát việc lắp đặt và đào tạo nhân sự cho người mua. Về nguyên tắc, khoản 2 Điều 3 quy định loại hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi Công ước nếu phần liên quan đến nghĩa vụ cung ứng dịch vụ không phải là “nghĩa vụ chủ yếu” của hợp đồng. Tòa phúc thẩm Muchen trong vụ tranh chấp hợp đồng mua bán máy sản xuất cửa sổ nêu trên cũng đã giải quyết trường hợp hợp đồng “hỗn hợp” theo quy định tại Điều 3.2. Trong hợp đồng giữa người mua Đức và người bán Italia, ngoài việc người mua sẽ cung cấp một số nguyên vật liệu, các bên còn thỏa thuận rằng hàng hóa sau khi hoàn thành sẽ được vận chuyển đến địa điểm kinh doanh của người mua, tại đó các kỹ thuật viên của người bán sẽ tiến hành lắp ráp. Tòa án nhận thấy giá trị của dịch vụ sử dụng các thợ máy trong 06 tuần chỉ cấu thành một phần nhỏ trong tổng giá trị chi phí của hợp đồng, ngoài ra, đặc điểm quá trình chế tạo hàng hóa quan trọng hơn so với việc lắp đặt và đưa hàng hóa vào hoạt động. Vì vậy, nghĩa vụ chủ yếu trong trường hợp này là cung cấp hàng hóa chứ không phải là dịch vụ. “Tính chủ yếu” của các nghĩa vụ thông thường được xác định dựa trên giá trị kinh tế của nghĩa vụ đó trong hợp đồng. Trong vụ tranh chấp diễn ra vào năm 2006 giữa người mua Đan Mạch và người bán Thụy Sĩ liên quan đến hợp đồng mua bán hệ thống máy đóng chai, Tòa án dân sự (Zivilgericht) Basel-Stadt nhận thấy: Nếu giá trị kinh tế của các nghĩa vụ cung ứng dịch vụ lớn hơn 50% giá trị kinh tế của toàn bộ nghĩa vụ của người bán thì hợp đồng này không thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG 198021. Theo đó, một Tòa án tại Pháp đã kết luận rằng hợp đồng mua bán và tháo dỡ nhà kho cũ thuộc phạm vi áp dụng của CISG 1980 với lý do giá trị của các dịch vụ tháo dỡ chỉ chiếm 25% tổng giá trị của hợp đồng22. Bên cạnh việc tính toán giá trị kinh tế của nghĩa vụ cung ứng dịch vụ, một số Tòa án cho rằng cần thiết phải xét đến các hoàn cảnh ký kết hợp đồng, mục đích của hợp đồng để xác định “tính chủ yếu” khi áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 3. Tòa án quận Mainz (Đức) lập luận là 21 Switzerland 8 November 2006 Civil Court Basil- Stadt (Packaging machine case). Nguồn truy cập: https://cisgw3.law.pace.edu/cases/061108s1.html, truy cập ngày 17/09/2020 22 CLOUT case No. 152, Cour d’appel Grenoble, France, 26 April 1995. Nguồn truy cập: https://cisgw3.law.pace. edu/cases/950426f2.html, truy cập ngày 17/09/2020 NGUYỄN THỊ HỒNG TRINH - BÙI THỊ QUỲNH TRANG 113Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên đều đặt trọng tâm vào các nghĩa vụ trong hợp đồng đối với việc bán và giao loại hàng hóa chất lượng cao này. Tòa án nhận thấy trước các nghĩa vụ khác của hợp đồng như vận chuyển, lắp đặt, bảo trì là nghĩa vụ phụ so với nghĩa vụ giao hàng23. 1.3. Phạm vi áp dụng của Công ước đối với các loại hàng hóa CISG 1980 không áp dụng đối với một số loại hàng hóa nhất định. Dựa vào mục đích của việc mua hàng, theo quy định tại Điều 2.a, Công ước không áp dụng nếu hàng hóa được mua để phục vụ mục đích cá nhân hoặc gia đình. Tuy nhiên, nếu hàng được mua bởi một cá nhân cho mục đích kinh doanh, giao dịch thì sẽ được điều chỉnh bởi CISG 1980. Riêng đối với hợp đồng tiêu dùng, yếu tố quyết định phạm vi áp dụng của Công ước là ý định sử dụng của hàng hóa. Một hợp đồng tiêu dùng thuộc trường hợp loại trừ áp dụng Công ước khi ý định dùng cho cá nhân hoặc gia đình được bên bán biết trước hoặc vào thời điểm giao kết hợp đồng. Dựa vào loại giao dịch, theo quy định tại Điều 2.b, Công ước không áp dụng cho các giao dịch bán đấu giá bởi giao dịch bán đấu giá có các quy định đặc thù trong pháp luật của các quốc gia. Do vậy, những giao dịch này sẽ tiếp tục được điều chỉnh bởi những quy định đó, mặc dù người đấu giá thành công có thể đến từ một quốc gia khác. Tương tự, Điều 2.c loại trừ việc áp dụng Công ước cho những giao dịch mua bán hàng hóa để thi hành luật hoặc các quyết định tư pháp. Điều 2.d loại trừ các giao dịch mua bán chứng khoán vì những giao dịch này liên quan đến những vấn đề khác với thương mại hàng hóa thông thường, và một số hệ thống pháp luật không xem chứng khoán là một loại hàng hóa. Dựa vào loại hàng hóa, Điều 2.e loại trừ áp dụng CISG cho những giao dịch mua bán tàu thủy, máy bay, thủy phi cơ. Điều 2.f loại trừ áp dụng Công ước cho giao dịch mua bán điện năng trên cơ sở rằng trong một số hệ thống pháp luật, điện năng không được xem là hàng hóa và mua bán quốc tế điện năng liên quan đến những vấn đề đặc thù so với những vấn đề thông thường của mua bán hàng hóa quốc tế. 1.4. Loại trừ phạm vi áp dụng của Công ước CISG 1980 được xây dựng trên nền tảng nguyên tắc tự do trong giao kết hợp đồng. Do đó, Công ước cho phép các bên có thể thỏa thuận về 23 CLOUT case No. 346, Landgericht Mainz, Germany, 26 November 1998. Nguồn truy cập: https://cisgw3.law. pace.edu/cases/981126g1.html, truy cập ngày 17/09/2020 việc loại trừ phạm vi áp dụng Công ước theo quy định tại Điều 6. Trong một hợp đồng mua bán xe ô tô giữa người mua Singapore và người bán Đức, các bên đã thỏa thuận về một điều khoản chọn luật, trong đó luật của Đức được áp dụng đối với hợp đồng này, đồng thời loại trừ việc áp dụng Công ước về Mua bán hàng hóa quốc tế (ULIS) và Công ước về Giao kết Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (ULF). Tòa phúc thẩm Muchen cho rằng CISG 1980 được áp dụng theo quy định tại Điều 1.1.a bởi tại thời điểm ký kết hợp đồng, cả Đức và Singapore đều là thành viên của Công ước. Ngoài ra, Tòa án lập luận rằng việc các bên loại trừ áp dụng ULIS và ULF không đồng nghĩa với việc loại trừ áp dụng CISG 1980. Tòa án cũng lưu ý trong một giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế, việc loại trừ áp dụng CISG 1980 phải được thể hiện bằng quyết định rõ ràng của các bên tham gia24. Trong một tranh chấp khác phát sinh từ hợp đồng mua bán máy giữa người bán Bỉ và người mua Đức, Tòa án quận Namur (Bỉ) cũng đưa ra kết luận tương tự. Tòa án nhận thấy hợp đồng được điều chỉnh bởi CISG 1980 bởi các bên có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia thành viên của Công ước và các điều kiện áp dụng Công ước đều thỏa mãn. Về việc loại trừ áp dụng CISG 1980, Tòa án cho rằng các bên không loại trừ việc áp dụng Công ước một cách rõ ràng hoặc ngầm định. Hợp đồng không có bất kỳ điều khoản nào đề cập đến luật áp dụng cũng như việc loại trừ áp dụng CISG 1980, các bên chỉ có thể loại trừ việc áp dụng Công ước bằng điều khoản rõ ràng, ví dụ “Hợp đồng này được điều chỉnh bởi luật mua bán hàng hóa theo Bộ luật dân sự Đức”. Hơn nữa, Tòa án chỉ ra là hợp đồng bằng tiếng Đức không được xem là loại trừ áp dụng Công ước một cách ngầm định25. Theo thực tiễn xét xử, các bên trong hợp đồng có thể loại trừ việc áp dụng CISG 1980 một cách rõ ràng hoặc ngầm định. Các bên có thể loại trừ việc áp dụng CISG một cách rõ ràng thông qua việc soạn thảo một điều khoản trong hợp đồng quy định việc CISG sẽ không được áp dụng, đồng thời chỉ rõ luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Ngoài ra, các bên còn có thể loại trừ việc áp dụng CISG 24 CLOUT No.826, Appellate Court München, Auto case, 19 October 2006. Nguồn truy cập: https://cisgw3.law. pace.edu/cases/061019g1.html, truy cập ngày 18/09/2020 25 Belgium 15 January 2002 District Court Namur (SA P. v. AWS). Nguồn truy cập: https://cisgw3.law.pace. edu/cases/020115b1.html, truy cập ngày 18/09/2020 PHÂN TÍCH PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980... 114 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 một cách ngầm định. Theo đó, việc các bên thỏa thuận lựa chọn luật của một quốc gia không phải thành viên của Công ước cũng được xem là một trường hợp loại trừ áp dụng Công ước. Hoặc trong một số trường hợp, Tòa án cũng công nhận ý chí loại trừ áp dụng Công ước khi các bên thỏa thuận chọn luật của quốc gia thành viên Công ước nhưng trong đó phải chỉ rõ luật nào của quốc gia sẽ được áp dụng đối với hợp đồng. 2. Một số khuyến nghị Trên cơ sở phân tích các quy định của Công ước Viên 1980 về phạm vi áp dụng thông qua một số tranh chấp tiêu biểu, bài viết đưa ra một số khuyến nghị đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như các doanh nghiệp trong quá trình áp dụng các điều khoản về phạm vi áp dụng như sau: Thứ nhất, Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ước từ ngày 01/01/2017; do đó, tất cả các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa công ty có địa điểm kinh doanh tại Việt Nam và các đối tác có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia khác sẽ mặc nhiên thuộc phạm vi áp dụng của Công ước. Tuy nhiên, cần hiểu rằng CISG được áp dụng không có nghĩa là luật quốc gia không còn vai trò gì nữa. Trật tự công cộng vẫn phải được tuân thủ và luật quốc gia vẫn điều chỉnh những vấn đề mà CISG không chạm tới. Thứ hai, trong trường hợp một công ty có địa điểm kinh doanh tại Việt Nam ký kết một hợp đồng mua bán hàng hóa với một đối tác có địa điểm kinh doanh tại một quốc gia không phải là thành viên của Công ước thì hợp đồng này chỉ có thể được điều chỉnh bởi Công ước theo các quy tắc tại Điều 1.1.b. Cụ thể, nếu tranh chấp phát sinh và các bên khởi kiện tại một tòa án của Việt Nam thì tòa án sẽ áp dụng các quy tắc Tư pháp quốc tế của Việt Nam để xác định luật thực định áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng. Quy phạm xung đột cho hợp đồng hiện hành là Điều 683 Bộ luật dân sự năm 2015. Theo điểm a khoản 2 Điều 683 của Bộ luật, nếu các bên không thỏa thuận luật áp dụng thì luật của nước có mối liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng là luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân (đối với hợp đồng mua bán hàng hóa). Do đó, luật thực định trong trường hợp này là luật của nước người bán. Nếu người bán là công ty của Việt Nam thì Công ước được áp dụng thay cho luật quốc gia Việt Nam bởi Công ước lúc này đã trở thành một phần nội luật của Việt Nam. Ngược lại, nếu người bán là đối tác thì luật của nước đó sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng này. Thứ ba, một lưu ý nữa đối với các cơ quan tài phán của Việt Nam là Công ước sẽ không áp dụng đối với một số hợp đồng nhất định. Từ thực tiễn xét xử, có thể nhận thấy các hợp đồng phân phối sẽ không thuộc phạm vi áp dụng của Công ước. Tuy nhiên, các hợp đồng riêng biệt cho các đơn đặt hàng được xem là hợp đồng mua bán hàng hóa và được điều chỉnh bởi Công ước. Đối với hợp đồng trao đổi hàng hóa, Luật thương mại Việt Nam năm 2005 chưa có quy định về hợp đồng trao đổi hàng hóa, nhưng Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015 đều có quy định về hợp đồng trao đổi tài sản: “Hợp đồng trao đổi tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, các bên giao tài sản và chuyển quyền sở hữu đối với tài sản cho nhau”26, đồng thời, khẳng định mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người mua đối với tài sản nhận về. Theo pháp luật Việt Nam, hợp đồng trao đổi hàng hóa là một dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán hàng hóa. Do đó, theo cách tiếp cận của một số học giả, Công ước có thể áp dụng cho loại hợp đồng này nếu pháp luật quốc gia xem nó là một hợp đồng mua bán hàng hóa. Thứ tư, một vấn đề khác các bên cần xét đến là: Liệu rằng các bên có thể lựa chọn áp dụng Công ước trong các trường hợp không thỏa mãn các điều kiện tiên quyết để áp dụng Công ước hay không? Đối với một quốc gia thành viên Công ước, đây là một trong những vấn đề quan trọng mà các doanh nghiệp cần quan tâm, đặc biệt là trong các hợp đồng hỗn hợp khi nghĩa vụ cung ứng dịch vụ là chủ yếu như Hợp đồng xây dựng hay các loại hợp đồng chìa khóa trao tay. Về nguyên tắc, Công ước sẽ không loại trừ phạm vi áp dụng đối với các hợp đồng này nếu các bên muốn lựa chọn áp dụng Công ước thông qua điều khoản chọn luật trong hợp đồng. Thứ năm, Công ước cho phép việc loại trừ áp dụng Công ước, tuy nhiên, các bên phải thể hiện ý định loại trừ một cách rõ ràng hoặc ngầm định. Tuy vậy, từ khía cạnh doanh nghiệp, việc loại trừ áp dụng Công ước không phải là một lựa chọn được khuyến khích cho các doanh nghiệp Việt Nam. Trong các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế, nếu các bên loại trừ việc áp dụng Công ước, thay vào đó lựa chọn áp dụng pháp luật của một quốc gia khác, các bên sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn trong việc tiếp cận và tìm hiểu các quy định của pháp luật nước ngoài khi tranh chấp xảy ra./. 26 Khoản 1 Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 455 Bộ luật dân sự năm 2015
File đính kèm:
- phan_tich_pham_vi_ap_dung_cua_cong_uoc_vien_1980_ve_hop_dong.pdf