Phân định giữa khiếu nại và tố cáo và những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng luật tố cáo và giải quyết tố cáo
(NCLP) Quyền khiếu nại, quyền tố cáo được quy định tại Điều 74 Hiến pháp 1992 và từ trước đến nay, những vấn đề về khiếu nại, tố cáo luôn được điều chỉnh trong cùng một văn bản pháp luật. Đến nay, văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo sẽ được tách thành hai đạo luật: “Luật Khiếu nại và giải quyết khiếu nại” và “Luật tố cáo và giải quyết tố cáo”. Theo chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2010 pháp luật thì Quốc hội sẽ xem xét cho ý kiến hai đạo luật này vào kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII. Tuy nhiên, việc xây dựng Luật về tố cáo và giải quyết tố cáo đang có khá nhiều vấn đề vướng mắc
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Phân định giữa khiếu nại và tố cáo và những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng luật tố cáo và giải quyết tố cáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân định giữa khiếu nại và tố cáo và những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng luật tố cáo và giải quyết tố cáo
giải quyết tố giác và tin báo tội phạm trong pháp luật về tố tụng hình sự, chủ yếu là trong Bộ luật Tố tụng hình sự; - Cơ chế giải quyết tố cáo tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, nhất là trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005. Ngoài ra, không thể không nhắc đến cơ chế giải quyết tố cáo đối với cán bộ, công chức là đảng viên theo các quy định của Đảng về vấn đề này. Như vậy, cùng lúc chúng ta có nhiều cơ chế trong khi đối tượng xử lý có rất nhiều nguy cơ trùng nhau (đều có thể là cán bộ, công chức là đảng viên) cho nên việc trùng chéo giữa các yếu tố của cơ chế, sự kém hiệu quả trong công tác giải quyết là tất yếu và đây chính là điều mà chúng ta cần phải nghiên cứu để có những giải pháp triệt để. 2.1. Về cơ chế giải quyết tố cáo chung Những quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo về vấn đề này được coi như văn bản “gốc” để xác định cách thức giải quyết mọi tố cáo. Chính vì tính chất chung như vậy cho nên Luật chỉ có thể đưa ra những quy định chung nhất về tiếp nhận và xử lý đơn thư tố cáo và xác định thẩm quyền theo những nguyên tắc nhất định: “ Điều 59 Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết. Điều 60 Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi phạm tội do các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”... Có thể nói rằng, phần quy định về tố cáo là rất nghèo nàn và những người tham gia soạn thảo cũng chẳng thể làm được gì hơn. Các cuộc thảo luận khi thông qua cũng vậy, ngoại trừ một vấn đề luôn nóng bỏng, đó là thái độ và cách xử lý đối với đơn thư tố cáo nặc danh. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã qua hai lần sửa đổi vào các năm 2004 và 2005 nhưng cả 42 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 13(174) 72010 BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT hai lần, nội dung sửa đổi đều chỉ liên quan đến phần khiếu nại, còn phần tố cáo thì không được “đụng” đến, đơn giản vì chẳng thể quy định gì hơn những cái đã có, đó là những nguyên tắc về thẩm quyền. Quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của các tổ chức thanh tra trong Luật cũng trở nên lạc lõng, vì thực tế, thanh tra chỉ giúp thủ trưởng xem xét các tố cáo thuộc phạm vi thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan hành chính, vả lại khi luật quy định mọi loại tố cáo thì tại sao lại quy định trách nhiệm xem xét cho một loại tố cáo mà thôi? Điều này ai cũng thấy nhưng rồi cũng đành “lờ” đi mỗi khi sửa đổi, bổ sung Luật. Điều này càng rõ ràng hơn khi chúng ta có những quy định về tố cáo trong Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành. 2.2. Về cơ chế giải quyết tố cáo trong Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành Trong Luật Phòng, chống tham nhũng, những quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo - như là một trong những giải pháp nhằm phát huy vai trò của công dân trong việc nâng cao hiệu quả phát hiện tham nhũng - gồm 4 điều, từ điều 64 đến điều 67: Điều 64. Tố cáo hành vi tham nhũng và trách nhiệm của người tố cáo; Điều 65. Trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết tố cáo; Điều 66. Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; Điều 67. Khen thưởng người tố cáo. Những quy định này hoàn toàn không có gì khác so với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Những quy định trong Nghị định số 120 hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng cũng chỉ cụ thể hoá các hình thức tố cáo để tạo thuận lợi cho người tố cáo chứ cũng không đưa ra những quy định về việc phân định thẩm quyền giải quyết tố cáo. Một điểm duy nhất hiện nay có sự không thống nhất ngay trong Nghị định 120 và không thống nhất với quy định của Nghị định 136 hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo là vấn đề xử lý đơn thư tố cáo nặc danh. Tinh thần chung của Luật Khiếu nại, tố cáo là không xem xét đơn thư tố cáo nặc danh và điều này được thể hiện trong Nghị định 136 “Những tố cáo về hành vi tham nhũng mà người tố cáo mạo tên, nội dung tố cáo không rõ ràng, thiếu căn cứ, những tố cáo đã được cấp có thẩm quyền giải quyết nay tố cáo lại nhưng không có bằng chứng mới thì không được xem xét, giải quyết”. Quy định này được chép lại y nguyên tại Khoản 3 Điều 41 của Nghị định 120. Tuy nhiên tại Điều 43 Khoản 4 lại có quy định “4. Đối với những tố cáo không rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo nhưng nội dung tố cáo rõ ràng, bằng chứng cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo thông tin được cung cấp để phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng”. Quy định này thể hiện sự thay đổi về thái độ và nhận thức đối với đơn thư tố cáo nặc danh và điều đáng lưu ý là nó phù hợp với tinh thần của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Tuy nhiên, dù giải thích thế nào đi chăng nữa, thì rõ ràng đã có sự mâu thuẫn giữa hai văn bản luật đối với việc xử lý đơn thư tố cáo nặc danh. 2.3. Về cơ chế giải quyết tố cáo trong pháp luật về tố tụng hình sự Trong Bộ luật Hình sự có quy định về tố giác và tin báo về tội phạm. Điều 101 quy định: “Công dân có thể tố giác tội phạm với cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với cơ quan, tổ chức khác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho cơ quan điều tra bằng văn bản”. Thực ra, giữa tố giác, tin báo về tội phạm với tố cáo chỉ khác nhau ở một điểm: tố cáo thì đối tượng là mọi hành vi vi phạm pháp luật, còn tố giác và tin báo về tội phạm thì đối tượng chỉ bao gồm tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao và được quy định trong Bộ luật Hình sự. Nhưng phân biệt hành vi vi phạm đến mức nào là tội phạm là vấn đề cực kỳ khó khăn, nhất là đối với người dân đi tố cáo hay tố giác. Với quy định như hiện nay, khi phát hiện một hành vi vi phạm pháp luật, người dân hoàn toàn có thể thực hiện việc tố cáo theo Số 13(174) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 437 2010 BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo mà cũng có thể tố giác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mà giữa hai văn bản này lại có nhiều điểm không thống nhất. Đây có thể coi là một trong những nguyên nhân gây ra sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thanh tra, điều tra, viện kiểm sát, giữa cơ quan quản lý và cơ quan tiến hành tố tụng. 2.4. Giải quyêt tố cáo đối với đảng viên Về nguyên tắc, đảng viên bị tố cáo khi vi phạm Điều lệ Đảng và thuộc thẩm quyền giải quyết của uỷ ban kiểm tra hoặc các cấp uỷ đảng. Tuy nhiên, ở nước ta, đa số cán bộ, công chức lại là đảng viên và theo quy định thì vi phạm pháp luật cũng là vi phạm Điều lệ Đảng. Như vậy, sai phạm của một đảng viên hoàn toàn có thể bị tố cáo đến các cơ quan nhà nước (cơ quan quản lý) hoặc tố giác với cơ quan tiến hành tố tụng và cũng đồng thời có thể bị tố cáo đến cơ quan kiểm tra của Đảng. Điều này lại làm phát sinh thêm sự chồng chéo về thẩm quyền giữa cơ quan nhà nước và cơ quan Đảng trong việc giải quyết tố cáo đối với cán bộ, công chức là đảng viên. Để xử lý vấn đề này, một số văn bản đã được quy định, chẳng hạn như Quy định số 52/QĐ/TW ngày 05/5/1999 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về giải quyết tố cáo đối với đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý, tiếp đó là Quy chế số 79 QC/KTTW ngày 09/5/2000 của Uỷ ban kiểm tra Trung ương về phối hợp giải quyết tố cáo đối với đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý. Tuy nhiên, trên thực tế, người tố cáo không thể biết được đâu là cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc mà mình muốn tố cáo, nên các cơ quan luôn phải chuyển đi chuyển lại đơn tố cáo. Chẳng hạn, từ tháng 6/1999 đến tháng 5/2008, Thanh tra Chính phủ đã tiếp nhận 337 đơn tố cáo liên quan đến cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, đã chuyển đến Ủy ban Kiểm tra Trung ương xem xét giải quyết. Cũng trong thời gian này, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã chủ trì giải quyết 851 đơn thư tố cáo, trong số đó có những tố cáo vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng và vi phạm chính sách, pháp luật và phẩm chất, lối sống. Nhiều nội dung tố cáo cho thấy, khó có thể xác định được thẩm quyền giải quyết đối với các tố cáo đó. Trong khi đó, Luật Khiếu nại, tố cáo không phân biệt đến cấp nào bị tố cáo thì thuộc thẩm quyền của cơ quan Đảng. 3. Một số suy nghĩ về hoàn thiện cơ chế giải quyết tố cáo và việc xây dựng luật tố cáo và giải quyết tố cáo Những bất cập của cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay đang dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động của các cơ quan nhà nước khi xử lý các loại đơn thư này. Nhu cầu nghiên cứu sửa đổi quy định liên quan đến việc tiếp nhận và xử lý các vụ việc tố cáo là tất yếu. Việc tách khiếu nại, tố cáo ra thành hai vấn đề để xử lý cho phù hợp là một quyết định, theo chúng tôi, là cần thiết. Tuy nhiên, có nên xây dựng một đạo luật riêng về tố cáo hay không thì lại là việc phải cân nhắc. Hãy thử hình dung các khả năng xảy ra tố cáo và từ đó “định vị” được các loại tố cáo để xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Để làm được điều này, theo chúng tôi, có ba vấn đề cần giải quyết: - Phân định giữa tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công chức khi thực hiện công vụ với hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân nào với tư cách công dân; - Phân định giữa tố cáo tội phạm và tố cáo hành vi vi phạm pháp luật khác chưa đến mức độ tội phạm; - Phân định giữa tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức và hành vi vi phạm của công chức, cán bộ đó với tư cách là một đảng viên đã vi phạm Điều lệ Đảng. Tất nhiên đây sẽ là một vấn đề cực kỳ phức tạp và phương án giải quyết nào cũng sẽ có những điểm hạn chế, mâu thuẫn. Xin nêu ra đây mốt số giải pháp bước đầu: Trước hết, điều quan trọng nhất là xác định đối tượng bị tố cáo và tính chất hành vi bị tố cáo. Theo chúng tôi nên chia làm hai loại: Loại thứ nhất: đối tượng tố cáo là công dân bình thường và hành vi vi phạm của họ không liên quan đến nhân thân, nghề nghiệp của họ. Chẳng hạn hành vi đánh bạc, đua xe máy hay 44 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 13(174) 72010 BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT buôn lậu có thể xảy ra với bất kỳ ai. Đối với đối tượng và loại hành vi này thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đó (chẳng hạn cơ quan giải quyết chuyện đánh bạc là cảnh sát, giải quyết tố cáo buôn lậu là cơ quan thuế), nếu những hành vi này đến mức độ tội phạm thì cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền giải quyết. Giữa hai loại cơ quan này có mối quan hệ qua lại để xử lý vụ việc tuỳ theo tính chất và mức độ nguy hiểm của nó. Nếu cơ quan quản lý thấy đến mức độ tội phạm thì chuyển cơ quan điều tra và ngược lại, nếu cơ quan điều tra nhận được tố cáo nhưng xét thấy hành vi đó chưa đến mức độ tội phạm thì gửi sang cơ quan quản lý để xử lý bằng các biện pháp hành chính. Loại thứ hai: đối tượng bị tố cáo là cán bộ, công chức và hành vi bị tố cáo liên quan đến việc thực thi nhiệm vụ, công vụ. Đây là vấn đề phức tạp nhất. Theo chúng tôi chỉ có một cách khả dĩ có thể tránh được sự phức tạp chồng chéo khi giải quyết loại tố cáo này là giao cho cơ quan thanh tra nhà nước, bởi vì về bản chất, cơ quan thanh tra chính là cơ quan giám sát việc thực thi nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức (Điều 1 của Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 đã thể hiện rõ điều này và đây chính là tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác thanh tra). Phương án này sẽ dễ dàng thực hiện với sự đổi mới toàn diện tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước theo hướng, thanh tra sẽ thực hiện chức năng giám sát hành chính, việc giải quyết khiếu nại hành chính sẽ giao cho cơ quan chuyên trách (cơ quan tài phán hành chính như hiện nay đang nghiên cứu xây dựng), việc thanh tra các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức ngoài nhà nước (thường được gọi là thanh tra kinh tế - xã hội) sẽ do các bộ, ngành đảm nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của bộ, ngành đó trên các lĩnh vực mà họ được phân công phụ trách, bởi vì bất cứ lĩnh vực nào cũng đều đã có một bộ chịu trách nhiệm quản lý mà công tác thanh tra, kiểm tra là một khâu trong công tác quản lý của bộ ngành đó. Tiếp đó nếu cán bộ, công chức đó là đảng viên thì phải giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan kiểm tra kỷ luật của Đảng. Chúng ta nên nhớ rằng, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ (Điều 4 Pháp lệnh Cán bộ, công chức và nguyên tắc đầu tiên về quản lý cán bộ, công chức là “Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” (Điều 5 Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực từ 01/01/2010). Giải quyết tố cáo chắc chắn sẽ dẫn đến việc xử lý cán bộ (nếu tố cáo đó là đúng). Trong việc xử lý cán bộ thì ý kiến của cơ quan đảng có tính chất quyết định, vì vậy, công tác giải quyết các tố cáo của các tổ chức thanh tra nhà nước phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan kiểm tra của Đảng (theo chúng tôi, tốt nhất là cơ quan kiểm tra và kỷ luật của Đảng). Phương thức kết hợp có thể như sau: - Đối với cán bộ, công chức là đảng viên bình thường thì cơ quan thanh tra tiến hành xem xét, xác minh tố cáo về những vi phạm pháp luật của người này, sau đó kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật (nếu đến mức độ hình sự thì chuyển cho cơ quan tố tụng hình sự), đồng thời báo cáo cơ quan kiểm tra, kỷ luật đảng để xử lý về mặt Đảng. - Đối với cán bộ công chức là đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý thì có thể cơ quan kiểm tra kỷ luật của Đảng chủ trì phối hợp với cơ quan thanh tra nhà nước xem xét giải quyết tố cáo đó. Hoặc có thể trong quá trình xem xét giải quyết tố cáo một đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước, cơ quan kiểm tra kỷ luật của Đảng có thể yêu cầu cơ quan thanh tra tiến hành xem xét làm rõ một hoặc một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm của người bị tố cáo, sau đó báo cáo kết quả cho cơ quan kiểm tra kỷ luật của Đảng để cơ quan này quyết định xử lý đối với cán bộ, đảng viên đó. Cơ quan kiểm tra, kỷ luật của Đảng sau khi đã có kết luận và xử lý về mặt Đảng sẽ yêu cầu cơ quan nhà nước xử lý theo pháp luật đối với người bị tố cáo. Để thực hiện sự phối hợp này thì phương án kết hợp giữa cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan kiểm tra, kỷ luật của Đảng theo mô hình “một nhà hai cửa” của Trung Quốc sẽ là tối ưu.
File đính kèm:
- phan_dinh_giua_khieu_nai_va_to_cao_va_nhung_van_de_dat_ra_tr.pdf