Nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
Hoạt động nhượng quyền thương mại quốc tế đang bùng nổ trên toàn thế giới. Có người cho rằng, các nhà nhượng quyền mở rộng hệ thống ra quốc tế nhằm đáp ứng các yêu cầu của các nhà nhận quyền tiềm năng, nhưng có ý kiến lại khẳng định, các nhà nhượng quyền phát triển ra thế giới để đạt được lợi nhuận từ thị trường tiềm năng vượt qua thị trường nội địa đã bão hòa và phát triển gây dựng thương hiệu. Điều đáng quan tâm là trong những năm qua, thị trường nhượng quyền tại Việt Nam phát triển mạnh với những tên tuổi như McDonalds, Baskin Robbins, Pizza Hut, Burger King, Lotteria, BBQ Chicken Là một quốc gia dân số khá trẻ và mong muốn thử nghiệm các “thương hiệu” mới, Việt Nam luôn là một điểm đến hấp dẫn đầy tiềm năng đối với các nhà nhượng quyền. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo một môi trường thu hút đầu tư là vấn đề tiên quyết và cần thực hiện sớm. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả tập hợp quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp nước ngoài, trên cơ sở đó đưa ra một số vấn đề cần được quan tâm hoàn thiện trong thời gian tới
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam
mại. Tuy nhiên, căn cứ vào Nghị định 08/2018/NĐ-CP sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương4 thì quy định về điều kiện trên đã bị bãi bỏ, có nghĩa là Nhà nước không còn quy định về điều kiện đối với bên nhận nhượng quyền thương mại. Trong trường hợp thương nhân (Việt Nam) là bên nhận quyền sau một thời gian muốn nhượng quyền lại cho một bên khác, thì pháp luật yêu cầu bên Việt Nam cũng phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất một năm trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại. Yêu cầu về cung cấp thông tin Đối với bên nhượng quyền, theo Nghị định 35, bên nhượng quyền phải cung cấp các tài liệu quy định cho bên nhận quyền ít nhất 15 ngày trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại. Việc đưa ra những thông tin chi tiết cho bên nhận quyền sẽ giúp cho nhà nhận quyền dự kiến hiểu rõ được nhà nhượng quyền, những quy định của các bên trong suốt quá trình thực hiện và rõ ràng cũng giúp cho nhà nhận quyền đánh giá lại khả năng của 2Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại. 3Nay là Bộ Công Thương. 4Nghị định 08/2018/NĐ-CP ngày 25/1/2018 của Chính phủ sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương. 3863(4) 4.2021 Khoa học Xã hội và Nhân văn mình, đánh giá lại khả năng theo đuổi của mình cùng với nhà nhượng quyền trong tương lai. Vì khi đã trở thành nhà nhận quyền là cam kết trọn vẹn cùng nhà nhượng quyền chia sẻ thành công và khó khăn trong suốt quá trình hợp tác này [3]. Hiện nay, khi mà hoạt động nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp Việt Nam mua lại hệ thống kinh doanh của các nhà nhượng quyền nước ngoài thì các nhà nhận quyền (Việt Nam) cần phải có đủ thời gian để nghiên cứu và tìm hiểu nhằm đánh giá khả năng kinh doanh của hệ thống, tránh rủi ro trước khi ký kết hợp đồng. Đối với bên dự kiến nhận quyền, trong hoạt động nhượng quyền thương mại, khi bên nhượng quyền trao các quyền thương mại của mình, bao gồm thương hiệu do mình gây dựng nên cùng các bí mật kinh doanh, cho một đối tác khác có thể gây ra nhiều rủi ro trong vấn đề nắm giữ ưu thế cạnh tranh, hơn nữa nếu bên nhận quyền thất bại thì sẽ ảnh hưởng đáng kể tới bên nhượng quyền. Vì thế bên nhượng quyền có quyền yêu cầu bên nhận quyền cung cấp thông tin một cách hợp lý để có thể quyết định trao quyền cho bên dự kiến nhận quyền. Hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế Định nghĩa hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế: Điều 285 Luật Thương mại 2005 [1] đã đề cập thuật ngữ “hợp đồng nhượng quyền thương mại” và tại Nghị định 35 đã định nghĩa về “hợp đồng phát triển quyền thương mại”, “hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp” nhưng khi đề cập đến thuật ngữ “hợp đồng nhượng quyền thương mại” thì không đưa ra một định nghĩa mà chỉ nói về hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Dù vậy, dựa vào định nghĩa về hoạt động nhượng quyền thương mại quốc tế đã đề cập, chúng ta có thể hiểu hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế trước hết là một hợp đồng thương mại. Nếu theo quy định mang tính chung cho mọi quan hệ dân sự thì yếu tố quyết định tính quốc tế hay yếu tố nước ngoài có thể rơi vào chủ thể, sự kiện pháp lý hoặc đối tượng của quan hệ. Cụ thể hơn, một hợp đồng nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam thì trước hết bên nhượng quyền phải là thương nhân nước ngoài [5]. Còn về phía bên nhận quyền, có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam và đang tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động nhượng quyền thương mại này phải được tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam. Một hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế phải đạt được hai mục đích cơ bản: (1) các điều khoản của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng, chính xác để ràng buộc các bên bằng quan hệ hợp đồng và có thể giải quyết được các vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng; (2) bảo vệ được quyền lợi của các bên và đặc biệt là quyền sở hữu trí tuệ của bên giao quyền kinh doanh. Bên nhượng quyền cũng cần phải biết thêm rằng, theo pháp luật Việt Nam, nếu có điểm nào không rõ ràng trong hợp đồng nhượng quyền thương mại thì tòa án thường có xu hướng giải thích điểm đó theo hướng có lợi cho bên nhận quyền với lý do chính bên giao quyền là người soạn thảo hợp đồng [10]. “Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế” (Khoản 8, Điều 409 Bộ luật Dân sự [5]). Chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam: đối với năng lực chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại nước ngoài tại Việt Nam thì Nghị định 35 đã quy định rõ điều kiện dành cho thương nhân nhượng quyền và thương nhân nhận quyền dù đó là thương nhân Việt Nam hay thương nhân nước ngoài. Theo đó, chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại nước ngoài tại Việt Nam cũng cần thỏa mãn các điều kiện giống như chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung [5]. Theo lộ trình cam kết về mở cửa thị trường bán lẻ sau WTO, Việt Nam đã ban hành một số quy định. Từ ngày 1/1/2008, Việt Nam được phép liên doanh trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại không hạn chế mức góp vốn từ phía nước ngoài; và từ ngày 1/1/2009, phía nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tức là kể từ thời điểm này, doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài được đối xử bình đẳng ngang nhau trước pháp luật. Nội dung cần chú ý của hợp đồng nhượng quyền thương mại: về vấn đề này, Điều 11 Nghị định 35 quy định: “Trong trường hợp các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam, hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể có các nội dung chủ yếu sau đây”. Điều này chứng tỏ rằng pháp luật Việt Nam không áp đặt quy định về nội dung bắt buộc phải có trong hợp đồng nhượng quyền thương mại mà tùy theo từng hợp đồng cụ thể các bên có thể tự do thỏa thuận đưa ra những điều khoản mà cả hai cùng đồng thuận. Mặc dù vậy, đối với một hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế, vấn đề về cơ quan giải quyết tranh chấp và luật áp dụng cho hợp đồng là một trong những vấn đề các bên cần quan tâm khi giao kết hợp đồng. Điều 11 Nghị định 35 quy định, pháp luật thương mại Việt Nam không ấn định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài. Do vậy, các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận để lựa chọn hệ thống pháp luật để điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại của mình. Trong trường hợp hợp đồng không có điều khoản về luật áp dụng thì việc xem xét luật áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp đồng nhượng quyền thương mại quốc tế sẽ được vận dụng như đối với hợp đồng nói chung theo Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 [5]. Khác với hợp đồng nhượng quyền thương mại trong nước, hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài hoàn toàn có thể được giải quyết bởi cơ quan tài phán nước ngoài và hoàn toàn có khả năng bị chi phối bởi hệ thống pháp luật nước ngoài và các điều ước quốc tế có liên quan. Cho dù khi tranh chấp xảy ra thì lúc đó các bên mới nghĩ tới chuyện cơ quan tài phán, nhưng với hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói chung thì cơ quan tài phán nước nào có thẩm quyền giải quyết lại đóng vai trò quan trọng cho vấn đề luật áp dụng - cũng có nghĩa là tới kết quả phán quyết sau này. Lý do cơ bản là bởi nếu không có điều ước quốc tế có liên quan điều chỉnh thì cơ quan tài phán nước nào sẽ sử dụng ngay hệ thống pháp luật nước đó để xem xét các vấn đề của hợp đồng [11]. “Sử dụng ngay” ở đây có thể là sử dụng quy phạm xung đột hoặc quy phạm thực chất (nếu pháp luật nước đó có quy phạm thực chất trực tiếp điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài). Do vậy trong trường hợp phải sử dụng pháp luật của nước có cơ quan tài phán thụ lý vụ việc, thì việc lựa chọn cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc 3963(4) 4.2021 Khoa học Xã hội và Nhân văn áp dụng pháp luật thực chất để điều chỉnh hợp đồng. Đây chính là điều đáng lưu ý cho các thương nhân Việt Nam khi thực hiện nhượng quyền thương mại. Giải pháp an toàn cho các thương nhân Việt Nam có lẽ vẫn là lựa chọn trọng tài hoặc tòa án Việt Nam. Khi đó các thương nhân Việt Nam sẽ có lợi về chi phí cũng như am hiểu luật pháp. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam Hoàn thiện các quy định về hình thức nhượng quyền thương mại Việc thiếu hụt trong quy định về hình thức nhượng quyền thương mại là một trong những nguyên nhân làm cho chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại sơ sài và không hiệu quả. Việc quy định rõ về các hình thức nhượng quyền thương mại không chỉ giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài cũng như trong nước có hình dung rõ nét hơn về tính đa dạng của hoạt động nhượng quyền thương mại mà còn đưa ra cho các chủ thể những hình dung về các sự kiện pháp lý, hậu quả pháp lý có thể xảy ra đối với từng hình thức nhượng quyền thương mại [2]. Đối với nhà chuyển nhượng quyền là các thương nhân nước ngoài thì việc quy định rõ ràng các hình thức nhượng quyền thương mại sẽ giúp tránh được những sai phạm khi giao kết hợp đồng nhượng quyền thương mại. Hoàn thiện quy định về thủ tục rút đơn đăng ký nhượng quyền thương mại Như đã đề cập ở trên, hiện nay chưa có quy định của pháp luật quy định vấn đề rút đơn đăng ký nhượng quyền thương mại. Việc bổ sung quy định này sẽ giúp cho các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp nước ngoài, đối tượng phải đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại khi gia nhập thị trường Việt Nam có một vị thế chủ động, linh hoạt và tạo cho các doanh nghiệp này quyền tự quyết khi tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Hoàn thiện quy định về thời hạn và chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại Nhiều chuyên gia cho rằng để thúc đẩy và phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại tại thị trường Việt Nam thì cần nới lỏng các quy định pháp luật để thu hút đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên về vấn đề thời hạn hợp đồng nhượng quyền thương mại, pháp luật cần cân nhắc định rõ một thời hạn tối thiểu cho hợp đồng thương mại. Ý nghĩa của việc đặt ra một thời hạn tối thiểu là để giúp cho hợp đồng nhượng quyền được tiến hành trong một thời gian vừa đủ để mỗi bên khai thác được lợi ích từ hoạt động nhượng quyền thương mại. Pháp luật cũng cần bổ sung thêm một số trường hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại và quy định rõ hơn về sự ràng buộc giữa các bên sau khi hợp đồng chấm dứt5. Hoàn thiện các quy định về sở hữu trí tuệ liên quan tới hoạt động nhượng quyền thương mại Pháp luật cần có những quy định bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ toàn diện trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Quyền sở hữu trí tuệ ở đây gồm tên thương mại, nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh Đối với pháp luật một số quốc gia khác, việc chuyển giao tên thương mại được coi là một phần khó tách rời đối với hoạt động nhượng quyền thương mại: Tiểu mục 77(5) của Luật Cạnh tranh của Canada quy định rằng “một công ty được liên kết trong đó một bên cấp cho bên kia quyền sử dụng nhãn hiệu hoặc tên thương mại để xác định hoạt động kinh doanh của bên được cấp”6. Bên cạnh đó pháp luật Hoa Kỳ, Đức, Phần Lan cũng ghi nhận về việc bên nhận nhượng quyền sẽ được sử dụng tên thương mại cùng với nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh trong hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, Luật Sở hữu trí tuệ [12] cũng cần phải xem xét đặt ra trường hợp ngoại lệ về chuyển quyền sử dụng tên thương mại trong hoạt động nhượng quyền thương mại, từ đó đảm bảo tính đồng bộ cho thương nhân khi tiến hành chuyển giao “quyền thương mại”. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại Luật Cạnh tranh 2018 [13] đã đưa ra các trường hợp mà thỏa thuận cạnh tranh bị cấm. Tuy nhiên, do tính đặc thù của hoạt động nhượng quyền thương mại mà nhiều khi bên nhượng quyền phải đưa ra những yêu cầu có thể mâu thuẫn với các quy định của pháp luật trong vấn đề này. Vì vậy, pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại sắp tới cần đưa vào hợp đồng những trường hợp ngoại lệ cụ thể mà pháp luật cho phép doanh nghiệp và được Nhà nước bảo vệ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Quốc hội khóa XI (2005), Luật Thương mại 2005 (số 36/2005/QH11) ngày 14/6/2005. [2] Vũ Đặng Hải Yến (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. [3] Nguyễn Khánh Trung (2008), Franchise: chọn hay không?, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. [4] Nguyễn Thị Dung (chủ biên) (2008), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - Những vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia. [5] Quốc hội khóa XIII (2015), Bộ luật Dân sự 2015 (số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015. [6] Nguyễn Bá Bình (2008), “Hợp đồng nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 5, tr.9-15. [7] Snell/Wilmer (2018), Alternatives to master franchising: area development agreements, area representatives and jointventures, www.swlaw.com. [8] Nguyen Ba Binh (2012), The role and influence of Vietnam’s Franchise Law on the development of Franchising: a multiple case study, Dortoral thesis, University of New South Wales (Australia). [9] Nguyễn Đông Phong (chủ biên) (2009), Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân. [10] Điêu Ngọc Tuấn (2009), “Những vấn đề cơ bản về nhượng quyền thương mại”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9, tr.4-12. [11]vhttps://vietnamfranchise.wordpress.com/category/h%E1%BB%A3p- d % E 1 % B B % 9 3 n g - n h % C 6 % B 0 % E 1 % B B % A 3 n g - q u y % E 1 % B B % 8 1 n - qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF-international-franchise-agreement/, 05/05/2018. [12] Quốc hội khóa XI, XII, XIV (2005, 2009, 2019), Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (số 50/2005/QH11) ngày 29/11/2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (số 36/2009/QH12) ngày 19/6/2009; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ (số 42/2019/QH14) ngày 14/6/2019. [13] Quốc hội khóa XIV (2018), Luật Cạnh tranh 2018 (số 23/2018/QH14) ngày 12/6/2018. 6The OECD Secretariat (1994), Competition Policy and Vertical Restraints: Franchising Agreements, Organisation for Economic Co-operation and Development, p.241. 5Xem thêm. Vũ Đặng Hải Yến (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại trong nên kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
File đính kèm:
- nhuong_quyen_thuong_mai_cua_doanh_nghiep_nuoc_ngoai_theo_quy.pdf