Những điều cấm kỳ trong văn hoá Jeju (Hàn Quốc) thông qua tục ngữ địa phương
Phương ngữ Jeju (Hàn Quốc) đang đứng trước nguy cơ biến mất do số người sử dụng
đang ngày một giảm đi. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu phương ngữ Jeju cũng như
các loại hình văn học dân gian địa phương được viết bằng phương ngữ này là một việc
làm cấp thiết. Bài viết này nghiên cứu về những điều cấm kỵ trong cuộc sống của người
dân đảo Jeju dựa trên nguồn ngữ liệu là kho tàng tục ngữ địa phương được tổng hợp trong
quyển ―Từ điển tục ngữ Jeju‖ của Go Jae Hwan (2013) và một số nghiên cứu khác. Bài
viết áp dụng phương pháp phân loại và tổng hợp nhằm chọn lọc ra những câu tục ngữ liên
quan đến những điều cấm kỵ trong đời sống. Thông qua qua quá trình nghiên cứu sẽ giúp
tìm ra được cấu trúc cú pháp cũng như độ hư thực của những điều cấm kỵ này trong bối
cảnh hiện đại
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những điều cấm kỳ trong văn hoá Jeju (Hàn Quốc) thông qua tục ngữ địa phương
đang canh tác. Ngoài ra trong chăn nuôi cũng có những câu nhƣ: 종(소) 꽂인 밧딘 쉬 안 놓나 (Không thả ngựa bò vào ruộng được cắm cọc) nghĩa là nơi cắm cọc là thửa ruộng nhà ngƣời khác nên không đƣợc tuỳ ý thả ngựa bò vào, 밤질 걸을 때 밧갈쉐랑 앞셉곡, 랑 앞셉지 말라 (Đi đường đêm thì để bò đi trước, đừng để ngựa đi trước) là vì loài bò điềm đạm hơn nên khi gặp tiếng động lạ vào ban đêm cũng không giật mình, 석은 몸에 안 감나 (Không quấn dây ngựa quanh mình), 도새기 새끼 날 때 다상 보민 숭 다 (Nhìn lợn đẻ con là bị quở mắng) là những hành động cấm kỵ khi nuôi gia súc, nếu phạm phải sẽ làm kinh động những loại vật này. Jeju là hòn đảo nằm giữa biển và luôn phải hứng chịu ảnh hƣởng của bão. Chính vì thế nên vào ngày xƣa hoạt động sản xuất trên đảo không đƣợc ổn định. Có năm đƣợc mùa, có năm mất mùa. Thêm vào đó hòn đảo đƣợc hình thành bởi hoạt động phun trào núi lửa nên thổ nhƣỡng ở đây chủ yếu là đất bazan, không thích hợp để trồng lúa nƣớc. Điều này dẫn đến việc ngƣời dân nơi đây rất quý trọng thức ăn. Họ xem việc lãng phí là điều cấm kỵ lớn nhất. Do đó xuất hiện những câu tục ngữ địa phƣơng nhƣ: 것 박접 민 줴짓나 (Bạc đãi thức ăn là gây tội), 먹는 물에 춤 바끄민 줴받나 (Nhổ nước bọt vào nước uống là có tội), 먹는 물에 돌 데(네)끼민 저승(싕)강 눈썹으로 건져 올려사 다 (Ném đá vào nước uống thì xuống Âm Phủ phải lấy lông mày vớt lên hết), 싯(씻)을 때 물 하영 쓰민 저승(싕)강 그 물 다 먹어사 다 (Dùng nhiều nước khi rửa mặt thì sau này chết phải uống hết nước đó). Hậu quả xuất hiện trong những câu tục ngữ này nhƣ ―có tội‖, ―xuống Âm Phủ‖, ―chết đi‖ tuy nghe rất nặng nề, nhƣng phần nào cho thấy đƣợc thái độ cứng rắn của ngƣời dân Jeju đối với những ngƣời sống lãng phí. Về văn hoá cƣ trú, trong tâm thức của ngƣời Jeju thì nhà cửa không quan trọng bằng ruộng đồng nên có những câu tục ngữ nhƣ: 집 물림 말앙 밧 물림 라 (Đừng thừa kế nhà, hãy thừa kế ruộng), 큰 집 물리지 말앙 족은 밧 물리라 (Đừng thừa kế căn nhà to, hãy thừa kế thửa ruộng nhỏ). Bên cạnh đó khi xây nhà cũng có những điều cấm kỵ cần phải lƣu ý, chẳng hạn nhƣ: 산은 올려 쓰곡, 집은 려 짓으라 (Xây mộ thì xây trên cao, cất nhà thì cất dưới thấp), 막은 방에 이 안 다 (Không dọn đến hướng bị nghẽn), 정지 옆이 통시 안 다 (Không xây nhà vệ sinh kế nhà bếp). Những điều cấm kỵ trên cũng phần nào cho thấy ngƣời Jeju rất tôn trọng tổ tiên, rất xem trọng phƣơng hƣớng khi xây nhà để tránh gặp phải những điều bất tƣờng. Đặc biệt, lợn là loài gia súc đƣợc nuôi trong nhà, mà cụ thể ở Jeju chuồng lợn thƣờng kết hợp với nhà vệ sinh nên ngƣời ta phải xây nhà bếp tránh xa nhà vệ sinh để đảm bảo vệ sinh. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 410 4.3. Những điều cấm kỳ trong đời sống tinh thần thông qua tục ngữ địa phƣơng Trong các nghi lễ liên quan đến vòng đời của con ngƣời thì sinh nở đƣợc xem là giai đoạn đầu tiên nhất. Sinh con đẻ cái là việc hệ trọng trong cuộc đời mỗi ngƣời. Dƣới định kiến Nho giáo ngày xƣa, nó còn là nghĩa vụ thiêng liêng không thể chối bỏ của ngƣời phụ nữ. Vì thế, việc sinh nở lúc nào cũng phải nghiêm túc và cẩn trọng từ giây phút bắt đầu mang thai, cho đến khi đứa bé chào đời. Vào thời điểm y học vẫn chƣa phát triển nhƣ ngày nay thì xác xuất sảy thai hoặc em bé mới sinh bị chết yểu khá là cao. Ngƣời Jeju ngày xƣa chỉ biết dựa vào kinh nghiệm của những ngƣời đi trƣớc để chăm sóc cho các bà bầu hoặc những bà mẹ đang ở cử. Có những điều cấm kỵ buộc họ phải tuân theo nhằm bảo toàn tính mạng cho cả mẹ và con. Trong lúc mang thai thì thai phụ phải cẩn trọng lời nói vì sợ đứa con trong bụng sẽ nghe đƣợc và bắt chƣớc, thành thử có câu tục ngữ 애기벤 여자 놈 숭보지 말라 (Bà bầu không được dèm pha người khác). Trong hành động, đi đứng cũng có những điều cấm kỵ nhƣ 애기벤 예펜은 울담을 넘지 아니 다 (Bà bầu không được trèo qua hàng rào), 애기 밴 예펜 석(줄) 안 넘나 (Bà bầu không được bước qua dây ngựa). Trong ăn uống phải cẩn trọng những món dễ bị ôi thiu do thời đó chƣa có tủ lạnh, cũng nhƣ Jeju có nền nhiệt cao hơn so với đất liền. Điều này thể hiện qua những câu tục ngữ nhƣ애기벤 여자 궤기 먹지 말라 (Bà bầu không được ăn thịt gà), 애기벤 여자 도새기궤기 먹지 말라 (Bà bầu không được ăn thịt lợn). Có những điều cấm kỵ sau này đƣợc khoa học kiểm chứng, nhƣng cũng có những điều mang màu sắc mê tín dị đoan. Chẳng hạn nhƣ: 산달에는 집수리 지 아니 다 (Tháng sinh nở không được sửa nhà), 뜬집의서 뜬 해에 두 여자가 애기 나지 말라 (Hai phụ nữ cùng nhà không được sinh con cùng năm). 애기 벤 여 철릿장 보지 말라 (Bà bầu không được nhìn vào hài cốt). Đối với những bà mẹ mới sinh con cũng có những phong tục khá thú vị nhƣ câu 쳇 애기 낭 분 젯 짱 건 사물 나는 듸 강 비와사 다 (Sinh con đầu lòng phải vắt sữa đổ xuống nơi suối chảy). Ngƣời Jeju xem sữa mẹ là thiêng liêng nhất. Nếu trẻ bú xong còn dƣ thì phải vắt ra hết đem đổ xuống suối chứ không đƣợc vứt bừa bãi. Họ tin rằng nếu đổ sữa mẹ xuống suối thì sau này sữa của bà mẹ đó cũng nhiều nhƣ dòng nƣớc suối, không lo bị thiếu sữa (Lƣơng Quốc An, 2018). Trên đảo Jeju, ngƣời ta tin rằng đứa bé sinh ra sẽ đƣợc bà Tam Thần (삼승할망, samseung halmang) phù hộ vƣợt qua mọi bệnh tật, ốm đau. Ở thời điểm đó, việc sinh đƣợc một đứa bé là một điều rất may mắn nên ngƣời Jeju rất mực yêu thƣơng trẻ em. Việc xem thƣờng hay hành hạ một đứa trẻ là điều tối kỵ, đƣợc thể hiện ở câu tục ngữ 할망 직 아이안티 눈꿀 민 줴짓나 (Liếc xéo đứa bé được bà Tam Thần phù hộ là mang tội). Bên cạnh đó cũng có những câu nhƣ 애기날 때 여러 사름안티 알뤼지 말라 (Khi sinh con đừng kể cho nhiều người biết), 소나이 귀 집안의서 소나이 나민 사름덜안티 알뤼지 말라 (Nhà hiếm nam mà sinh con trai thì đừng thông báo người khác biết) dùng để ngăn cấm việc loan tin khắp nơi làm cho hàng xóm hiếu kì kéo đến xem, cũng nhƣ ma quỷ mang đến cho đứa bé vận vui. Khi em bé đến tuổi trƣởng thành sẽ phải dựng vợ gả chồng. Ngay từ quá trình chuẩn bị hôn lễ cũng đã có nhiều điều kiêng cử. Chẳng hạn nhƣ: 잔칫옷 홀어멍 안 다 (Bà mẹ góa Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 411 phụ không may đồ cưới), 홀어멍이 새각씨 쳇옷을 르민 나쁘다 (Bà mẹ góa phụ cắt may bộ đồ đầu tiên của cô dâu thì xui xẻo), 상제가 새각씨나 새시방 옷을 멩글민 나쁘다 (Người để tang làm đồ cưới cho cô dâu chú rể thì xui xẻo). ―Áo cƣới‖ ở đây cũng bao hàm cả tấm chăn và những trang phục, trang sức của cô dâu và chú rể dùng trong ngày cƣới. Nếu để cho những ngƣời nhƣ goá phụ hoặc ngƣời có tang may sẽ làm cho cuộc hôn nhân này gặp nhiều xui xẻo. Trong lễ cƣới cũng có nhiều điều kiêng kỵ buộc cả cô dâu lẫn chú rể phải thận trọng và tuân thủ nghiêm ngặt, nếu không sẽ rƣớc về những điều bất hạnh cho gia đình. Dễ dàng nhận thấy những điều cấm kỵ nhƣ: 잔칫날 새각씨 울지 말라 (Cô dâu không được khóc vào ngày cưới), 잔칫날 씨집간 새각씨 안테레만 보아사 다 (Cô dâu lấy chồng chỉ được nhìn vào trong nhà vào ngày cưới), 씨어멍 잔칫날 새각씨 들어오는 거 보지 말라 (Mẹ chồng không được nhìn con dâu mới bước vào nhà trong ngày cưới) đa số áp đặt lên ngƣời phụ nữ. Cô dâu không đƣợc phép khóc vì kết hôn là một sự kiện vui vẻ, cũng không đƣợc nhìn ra ngoài cửa vì sẽ bị hiểu lầm là muốn bỏ trốn. Kể cả bà mẹ chồng quyền uy cũng phải tránh mặt đi trong ngày cƣới vì ngƣời ta tin rằng nếu mẹ chồng và con dâu mới nhìn thẳng mặt nhau vào ngày cƣới thì sau này quan hệ mẹ chồng, nàng dâu sẽ không suôn sẻ. Điều này không khó hiểu, bởi vì dù ở xa đất liền nhƣng Nho giáo vẫn ảnh hƣởng ít nhiều đến tƣ tƣởng của ngƣời dân trên đảo. Trong xã hội Nho giáo nhƣ thế thì ngƣời phụ nữ là đối tƣợng không có nhiều tiếng nói và buộc phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Thật ra suy cho cùng việc đặt ra những điều cấm kỵ này cũng xuất phát từ tình thƣơng yêu của các bậc cha mẹ dành cho con gái mình, không muốn con mình làm sai để rồi bị nhà chồng xem thƣờng. Sinh lão bệnh tử là hành trình mà bất kì ai cũng phải trải qua. Khi một ngƣời vừa mất, ngƣời nhà sẽ tiến hành tẩm liệm. Việc may áo liệm cũng có điều kiêng cử. Đó là câu tục ngữ: 호상옷 씰(실) 작 안 지운다 (Không thắt dây chỉ của áo liệm). Ngƣời Jeju tin rằng khi may áo liệm mà thắt dây chỉ đồng nghĩa với nỗi hận lúc sinh thời của ngƣời đó cũng bị thắt lại, không đƣợc hóa giải nên đây là điều không tốt lành. Khi cử hành tang lễ thì tang chủ cũng phải chú ý một số điều nhƣ 상젠 물색옷 입지 말라 (Tang chủ không được mặc áo lộng lẫy), 동네 좋은 일 셔도 상젠 나뎅기지 말라 (Trong xóm có chuyện vui thì tang chủ cũng không được đi loanh quanh). Đối với những ngƣời hàng xóm cũng có nhiều điều phải cẩn trọng, nhƣ là: 동네 영장난 때 성복 기 전이 머리 빗지 말라 (Trong xóm có nhà chịu tang, đừng nên chải đầu trước khi người ta mặc tang phục), 동네 영장난 때 바농질 지 말라 (Trong xóm có nhà chịu tang đừng nên may vá). Ngƣời Jeju quan niệm việc chải đầu hoặc may vá khi hàng xóm có tang giống nhƣ việc đồng ý cho ngƣời mất kéo theo mình cùng xuống Âm Phủ. Nếu nghiêm túc thực hiện những điều kiêng cử này, một mặt vừa thể hiện lòng tôn trọng ngƣời mất, mặt khác tránh đƣợc việc chuốc họa vào thân. 5. Thảo luận về tính hƣ thực của những câu tục ngữ cấm kỳ ở đảo Jeju Đảo Jeju đƣợc mệnh danh là quê hương của 18.000 vị thần. Chức năng chủ yếu của những vị thần này là phù hộ cho sự bình yên và ban phƣớc lành để ngƣời dân có đƣợc mùa màng thuận lợi. Với hoàn cảnh địa lý cách biệt với đất liền, đất đai bạc màu và thƣờng xuyên Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 412 xảy ra thiên tai, ngƣời dân Jeju chỉ có thể đặt niềm tin vào những yếu tố tâm linh để trấn an tinh thần cho mình. Chính vì niềm tin tuyệt đối vào các đấng tối cao nhƣ thế nên họ đặt ra những điều cấm kỵ để tránh làm phật lòng các vị ấy. Ở Jeju có tục thờ thần rắn nên có câu 배염 려난막댕인 거찌(시)지도 말라 (Đừng động vào cây gậy từng dùng để đánh rắn). Sẽ ra sao nếu ngƣời đó vô tình chạm tay vào cây gậy đó? Có lẽ là sẽ bất an và mất ăn, mất ngủ trong nhiều ngày. Giống nhƣ ngƣời Việt cũng có câu Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, vậy nên suy cho cùng việc tuân thủ tốt những điều cấm kỵ cũng là một cách để trấn an tâm lý. Câu tục ngữ 정월 초 를날 여자 놈의 집이 안 간다 (Đàn bà không qua nhà người khác ngày mồng một tháng Giêng) và 여자 속옷 울담에 널지 말라 (Đồ lót đàn bà đừng phơi trên hàng rào) cũng rất phù hợp khi đặt trong bối cảnh triều đại Joseon (1392 – 1910), một thời kì mà Nho giáo đƣợc xem là quốc giáo trên toàn bán đảo Korea. Trong xã hội đó, ngƣời phụ nữ luôn bị ràng buộc bởi nhiều điều cấm kỵ mà những ngƣời ngày nay cảm thấy rất vô lý và khó hiểu. Nhƣng họ không thể không làm, để tránh bị xã hội dèm pha. Phật giáo cũng ảnh hƣởng đến đời sống tinh thần của ngƣời Jeju ngày xƣa nên trong nhiều câu tục ngữ cũng ẩn chứa nội dung nghiệp báo, luân hồi. Chẳng hạn nhƣ câu: 먹는 물에 돌 데(네)끼민 저승(싕)강 눈썹으로 건져 올려사 다 (Ném đá vào nước uống thì xuống Âm Phủ phải lấy lông mày vớt lên hết). Có những điều cấm kỵ nếu đặt trong bối cảnh hiện đại tƣởng chừng rất vô lý và mang màu sắc mê tín nhƣng nhìn từ hoàn cảnh lịch sử và địa lý của đảo Jeju thì hoàn toàn có thể hiểu đƣợc. Chính những điều này đã tạo nên một bản sắc văn hoá rất riêng cho đảo Jeju. Cũng có những câu tục ngữ cấm kỵ bề ngoài mang màu sắc mê tín dị đoan nhƣng thực chất lại có tính khoa học, tính hợp lý vì nó đúc kết kinh nghiệm của cha ông để lại. Ví dụ nhƣ trong chuyện mang thai có câu 산달에는 집수리 지 아니 다 (Tháng sinh nở không được sửa nhà). Có ngƣời sẽ nghĩ rằng ngƣời Jeju sợ việc xây cất nhà cửa sẽ mang lại điều xui xẻo cho bà mẹ sắp sinh hoặc ngƣợc lại nhà có ngƣời mang thai mà còn xây nhà sẽ làm cho gia đình gặp tai ƣơng. Nhƣng thật chất việc xây nhà trong lúc mang thai sẽ làm kinh động đến thai phụ, bụi bặm xuất hiện trong quá trình xây, sửa nhà cũng ảnh hƣởng đến sức khoẻ mẹ và con. Tính khoa học còn thể hiện trong rất nhiều những câu tục ngữ khác, đặc biệt là kinh nghiệm đi biển, trong lao động sản xuất. Nhìn chung, trong số những câu tục ngữ về điều cấm kỵ ở đảo Jeju, cũng có những câu mang tính khoa học và cũng có những câu phi khoa học. Nhìn vào những câu tục ngữ phi khoa học đó và đánh giá ngay là mê tín là một việc làm rất phiến diện. Chúng ta phải đặt chúng vào hoàn cảnh lịch sử, địa lý của đảo Jeju để hiểu đƣợc bối cảnh hình thành của những điều cấm kỵ này. Thông qua đó sẽ hiểu đƣợc tƣ duy, suy nghĩ của cƣ dân trên đảo ngày xƣa. 6. Kết luận Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy những điều cấm kỵ ở bất kỳ xã hội nào và những điều cấm kỵ này thƣờng đƣợc thể hiện dƣới dạng tục ngữ ngắn gọn, dễ nhớ và có tính giáo huấn cao. Jeju là một hòn đảo tách biệt khỏi bán đảo Korea, nằm trơ trọi giữa biển khơi mênh mông đầy rẫy nguy hiểm. Chính vì vậy ở Jeju ngày xƣa đã đặt ra nhiều điều cấm kỵ để trấn an tâm Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 413 lý bản thân và trong số đó cũng có nhiều điều mang tính khoa học, có thể áp dụng đƣợc trong xã hội hiện đại. Thông qua nghiên cứu này, chúng tôi hy vọng đã mang đến một cái nhìn khái quát về những điều cấm kỵ ở Jeju thông qua tục ngữ địa phƣơng. Qua đó, nhấn mạnh đƣợc tầm quan trọng của việc nghiên cứu phƣơng ngữ, đặc biệt là những phƣơng ngữ đang có nguy cơ biến mất nhằm mục đích gìn giữ và bảo tồn bản sắc văn hoá của dân tộc sử dụng phƣơng ngữ đó. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt Hoàng Phê (Chủ biên, 1995). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng. Lƣơng Quốc An (2017). Hải nữ Jeju – Nhìn từ góc độ văn hoá biển. Tạp chí Hàn Quốc, 01 (19), 38-45. Lƣơng Quốc An (2018). Những đặc trưng văn hoá của đảo Jeju (Hàn Quốc) thông qua tục ngữ địa phương. Luận văn Thạc sĩ, Trƣờng đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM. Trần Văn Tiếng (2006). So sánh một số đặc điểm cú pháp, ngữ nghĩa của tục ngữ tiếng Việt và tiếng Hàn. Luận án Tiến sỹ, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ Tp. Hồ Chí Minh. Tiếng Hàn 고재환 (1993).제주속담총론. 서울:민속원출판사. (Go Jae-hwan (1993). Tổng quan về tục ngữ Jeju. Seoul: NXB Minsukwon) 고재환 (2013). 제주속담사전. 서울: 민속원출판사. (Go Jae-hwan (2013). Từ điển tục ngữ Jeju. Seoul: NXB Minsukwon). 고진숙 (2003). 국어사용능력신장을위한제주속담활용지도방안. 제주교육대학교석사학위논문. (Go Jin-suk (2003). Phương án chỉ dẫn vận dụng tục ngữ Jeju để nâng cao năng lực sử dụng quốc ngữ. Luận văn Thạc sỹ Trƣờng Đại học Giáo dục Jeju). 문순덕 (2012). 제주여성속담의미학. 서울: 민속원출판사. (Moon Soon-deok (2012). Nét đẹp trong tục ngữ về phụ nữ Jeju. Seoul: NXB Minsukwon). 연세대학교 (1992). 한국어 4.서울: 연세대학교출판부. (Trƣờng Đại học Yonsei (1992). Tiếng Hàn 4. Seoul: NXB Đại học Yonsei). TABOOS IN JEJU (SOUTH KOREA) CULTURE THROUGH LOCAL PROVERBS Abstract Jeju dialect (South Korea) has become endangered because users of this are in great decline. That is the reason why researching Jeju diaclect and Jeju folk literature written in this dialect seems to be very urgent. This paper will properly investigate some taboos in Jeju culture based on local proverbs which were compiled in ―Jeju proverb dictionary‖ of Go Jae-hwan (2013) and in other researches. This paper uses classification and synthesis method to select some Jeju proverbs related to local residents' taboos. We aim at finding out grammatical structures and the truth of these taboos in modern society through the researching process. Keywords proverb, culture, taboo, Jeju island
File đính kèm:
- nhung_dieu_cam_ky_trong_van_hoa_jeju_han_quoc_thong_qua_tuc.pdf