Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh

Trên đất xứ Thanh, những dấu tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1416

-1427) còn lại đến nay vẫn không hề nhỏ. Trong lĩnh vực sáng tác văn hóa dân gian,

đáng kể là hệ thống truyền thuyết, cổ tích, giai thoại gắn với chủ đề khởi nghĩa Lam Sơn

và người anh hùng dân tộc Lê Lợi còn là vấn đề khoa học lý thú. Với nội dung kết cấu

và ý nghĩa biểu tượng lôi cuốn, các sáng tác dân gian về Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam

Sơn trên đất xứ Thanh gợi mở nhiều điều giúp chúng ta nhìn nhận đầy đủ, toàn diện

hơn về tư tưởng, tình cảm của quần chúng nhân dân đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

nói chung và vị anh hùng dân tộc Lê Lợi nói riêng

Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh trang 1

Trang 1

Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh trang 2

Trang 2

Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh trang 3

Trang 3

Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh trang 4

Trang 4

Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh trang 5

Trang 5

Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 2540
Bạn đang xem tài liệu "Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh

Những dạng thức của truyền thuyết về Lê Lợi trên đất xứ Thanh
ng dân tộc Lê Lợi, nơi mà 
yếu tố lịch sử và huyền thoại được hòa quyện tạo ra cả một kho tàng lịch sử văn hóa 
phong phú: “Có thể khẳng định rằng, lịch sử văn học dân gian Việt Nam không một đề 
tài nào được trở nên phong phú như đề tài Lam Sơn trong kho tàng truyền thuyết. Và 
cũng không có một nhân vật lịch sử nào được đi vào dân gian như Lê Lợi: thấm sâu, 
bám rễ, chiếm lĩnh cả chiều ngang lẫn chiều dọc của thế giới truyền thuyết Lam Sơn”2. 
 2. Hệ thống truyền thuyết liên quan đến anh hùng dân tộc Lê Lợi trong khởi 
nghĩa Lam Sơn 
 Trong số những nhân vật Lam Sơn, Lê Lợi là một trong những hình ảnh có tính 
chất biểu tượng và thực tế, kho tàng truyền thuyết gắn với Bình Định Vương chiếm 
phần lớn trong các sáng tác dân gian về khởi nghĩa Lam Sơn. Về truyền thuyết đi cùng 
1 Phòng QLKH - HTQT, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa 
2 Vũ Ngọc Khánh (2009), Lê Lợi - con người và sự nghiệp, Nxb Thanh Hóa, tr.140 
 49 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
Lê Lợi, các sách Lam Sơn thực lục, Đất Lam Sơn, Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn hay 
Sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn đã đề cập nhiều. Dựa trên những tư 
liệu đã có, chúng tôi tạm chia hệ thống truyền thuyết gắn liền với ông thành 4 dạng chính: 
 - Dạng 1: là kiểu huyền thoại gắn với các lời nguyện thiêng, “phó thác Thiên 
mệnh” trong các chuyện Gươm thần; Nhặt ấn trong vườn nhà; Trả gươm ở hồ Lục Thủy 
(Hoàn Kiếm, Hà Nội), Lũng Nhai hội thề 
 - Dạng 2: lớp huyền thoại đặc biệt gắn với những người phụ nữ là các bà phi, tỳ 
nữ, công chúa, những người phụ nữ vô danh. Có thể liệt kê một số chuyện: Trịnh Ngọc 
Lữ, Phạm Ngọc Trần, công chúa Bạch Ngọc, Hoa Nương, Hồng Nương, Thủy Tiên 
công chúa, Bà Am, Hồ Ly phu nhân, Mụ hàng Dầu, Người đàn bà trên “Cánh đồng Mẫu 
hậu”, Bà lão Quan Nội, Bà lão bến rau Quỳ Chữ... 
 - Dạng 3: truyền thuyết về địa danh phản ánh những sự kiện lịch sử cụ thể: Tiến 
Nông, Quỳ Chữ, Chí Cẩn, Đoán Quyết, Bất Căng, Hữu Lễ - Bái Thượng - Bái Đô, làng 
Bà, làng Nhân, làng Trò, làng Năng Cát, Chòm Thiu, Chòm Đỏ, làng Túng - dốc Ngán - 
núi Chan, và các tên đồi, tên sông, tên núi... 
 - Dạng 4: chuyện thu phục nhân tâm, quy phục anh hùng, xả thân cứu chúa: Lê Lai, 
Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú, Phạm Cuống, Thái Phú (quân Minh)... 
 3. Kết cấu và ý nghĩa biểu tượng 
 Trong 4 dạng kể trên, truyền thuyết về những người phụ nữ gắn với Bình Định 
Vương và giai thoại tên địa danh do Lê Lợi đặt có mức độ tập trung cao và chủ đạo 
trong kho tàng truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn. 
 Đối với mỗi loại trong hệ thống truyền thuyết này, vai trò của mỗi dạng cũng có 
sự khác nhau. Xét về mặt thời gian, huyền thoại các lời nguyện thiêng được ra đời chủ 
yếu trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa, hoặc có tư cách biểu tượng “tuyên bố” kháng 
chiến (chuyện Gươm thần, Lời thề Lũng Nhai). Cấu trúc của nó khá tương đồng, gồm 
chủ thể (Lê Lợi) và các khách thể (người dân chài trên sông Mục, những người hào kiệt, 
quần thần tập hợp xung quanh ông...). Xuyên suốt lớp truyền thuyết này là âm hưởng về 
“tính thiêng”. Điều dễ nhận thấy, Lê Lợi vốn không xuất thân dòng dõi quý tộc Trần -
Hồ, việc hiệu triệu sức mạnh để kháng chiến chống giặc Minh rất cần một cơ sở. Trong 
bối cảnh mà các “di sản” tư tưởng của họ Trần còn ảnh hưởng đáng kể sau cuộc thoán 
ngôi của nhà Hồ, thì tập hợp nhân tâm với một tù trưởng xuất thân sơn cước có vẻ rất 
khó khăn. Đây là lý do để “giải mã” chữ “Thuận Thiên” trên thanh gươm thần mà nhân 
dân trao cho Ông. Hình ảnh thanh gươm tỏa vầng hào quang sáng quắc và hàng loạt sự 
việc ly kỳ đi theo nó cùng với dòng chữ Hán được bố trí khéo léo dưới chuôi gươm... 
những chi tiết này nhằm mục đích tạo dựng hình ảnh “con người thiêng” được trao gửi, 
phó thác chân mệnh Thiên Tử - một mô típ rất quen thuộc trong mẫu hình của các bậc 
quân vương. 
50 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
 Trước chuyện gươm thần, những câu chuyện về “ứng thiên thuận nhân”, “trời 
mang đến, người đem cho” khéo léo sáng tạo với nhiều màu sắc ly kỳ, đậm chất thần 
thoại. Chuyện thần phi của Ông, bà Trịnh Ngọc Lữ, buổi sớm mai nhặt được “quả Ấn” 
trong vườn cải, chuyện “Để Mả” đề cập trong Lam Sơn thực lục. Xen kẽ trong đó là hai 
lời thề nổi tiếng, một lời thề biểu dương sức mạnh, tuyên ngôn đánh giặc (Hội thề Lũng 
Nhai) và lời thề kết thúc chiến tranh, trả gươm thần, thu giang sơn về một mối. 
 Khác với “những lời nguyện thiêng”, truyền thuyết về Lê Lợi gắn với những 
người phụ nữ xuất hiện muộn hơn, ra đời nhằm ghi dấu quá trình chiến đấu cam go, bị 
truy kích, tuyệt lương, vây khốn, giữa lằn ranh giới mong manh sự sống và cái chết hay 
chứng kiến những trận đánh có tính bước ngoặt của cuộc chiến. Nội dung các chuyện 
này cơ bản ngợi ca tấm gương những người phụ nữ, cả lịch sử lẫn vô danh “giúp sức, 
trợ lực” cho Bình Định Vương. Đây thực sự là “chuỗi truyền thuyết” đẹp và lãng mạn 
nhưng cũng đậm chất liêu trai về người anh hùng. Về hình mẫu, những người phụ nữ 
này có 3 đại diện căn bản: (1) các bà phi - là những con người lịch sử; (2) các “bà già 
dân gian vô danh” như bà hàng Dầu, bà già ở đền Tép, ở Hoằng Hóa, ở Ngã ba Si, ở 
cánh đồng Thạc... giúp ông miếng cơm lúc đói lòng, che dấu ông khi bị quân thù truy 
đuổi, thám báo, giúp đỡ nghĩa quân; (3) các vị thần nữ hiển ứng như thần Hồ Ly. Tất cả 
những gương mặt đại diện, dù xuất thân ra sao, đến từ thế giới nào thì mẫu số chung 
toát lên vẻ trong sáng, tự nguyện. Chuyện về một bà phi tự nguyện hiến thân trên sông3, 
một thần Cáo trắng cứu giúp Ông thoát nạn trong rừng4, và đáng kể các mô típ “mộng 
thần hiển linh” như chuyện Thủy Tiên công chúa ở Giao Xá (Thọ Xuân) giúp tiêu diệt 
Liễu Thăng, Ngọc Ban phu nhân báo mộng xin giúp đánh thành Trà Long, Kim Ngọc 
Bà Vương ở Nga Sơn trợ sức một cuộc thủy chiến, Trinh Bạch công chúa hiển ứng xin 
tham gia bảo vệ “kỳ nghĩa” (cờ chiến), chuyện Lê Lợi mộng thấy “người tình dân gian” 
của mình (nàng Hoa Nương) qua giấc mơ đêm bày tỏ tâm nguyện xin phù hộ cho cuộc 
khởi nghĩa thành công... 
 Nhìn chung, số lượng truyền thuyết này đậm đặc tính nhân văn, pha trộn và hỗn 
dung nhiều yếu tố lịch sử và huyền thoại, có tác dụng phản ánh hiện thực để ta hiểu hơn 
về bối cảnh và diễn tiến khởi nghĩa Lam Sơn. Đặc biệt, nó khắc họa nỗi cơ cực mà Bình 
Định Vương phải trải qua, để thấy được bên cạnh khát vọng sáng tạo của nhân dân 
nhằm “thiêng hóa” Ông còn có những câu chuyện cảm động về tấm lòng đùm bọc, sự 
cưu mang che chở của nhân dân. Chuyện về Lê Lợi có cả vầng hào quang thần thoại và 
tính thiêng, đôi lúc vẫn hiện lên là một hình tượng anh hùng cụ thể, gần gũi, mộc mạc 
và giản dị: “Lê Lợi không như một tướng thần linh nào trăm trận trăm thắng. Nhưng 
3 Chuyện Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần hiến tế thần sông Phổ Hộ trên cửa Triều Khẩu (Hưng Nguyên, 
Nghệ An) trong trận đánh thành Nghệ An năm 1425, xem Thanh Hóa chư thần lục, tr 387. 
4 Chuyện Hồ Ly phu nhân giúp ông thoát nạn trong một lần chạy giặc trên núi Chí Linh. 
 51 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
trong cái thua của Lê Lợi có rất nhiều cái được, và những cái được chủ yếu nhất, có tác 
dụng nhất, chính là sự gan góc chịu đựng, thủy chung và tấm lòng bù trì che chở của 
nhân dân”5. 
 Truyền thuyết về địa danh gắn với Lê Lợi tương đồng về thời gian với dạng truyện 
về những người phụ nữ tập hợp xung quanh Ông, nó được sáng tạo và lưu truyền nhằm 
mục đích kỷ niệm sự kiện. Mỗi một trận đánh, mỗi biến cố đều được ghi lại như cuốn 
“nhật ký hành quân” lý thú, hấp dẫn. Sau khi hạ thành Đa Căng (một tên gọi do quân 
Minh đặt để chế nhạo sức mạnh của quân Lam Sơn) Ông đổi tên thành Bất Căng (chỉ 
khiêm tốn, giản dị), “Tổ cá phường” nơi bà lão trên bến rau cho Ông một bữa no ngày 
chạy nạn, cảm kích Lê Lợi đổi tên gọi thành Quỳ Chữ6, đến làng đón tiếp trọng thể thì 
gọi “Hữu Lễ”, đến nơi khác thấy lão ấu tiến lên chào trước gọi là “làng Bái Thượng”, nô 
nức bái thì gọi “làng Bái Đô” (đua nhau bái, gọi chệch âm từ Bái Đua). Làng chăm lo 
cày cấy gọi là “Tiên Nông” (dĩ nông vi tiên); đến một làng nọ thấy trẻ em, người già tổ 
chức canh phòng cẩn mật, chu đáo bèn đặt tên là “Chí Cẩn” (rất cẩn thận), sang một địa 
phương khác thấy dân gian thể hiện niềm tin vào toàn thắng ắt về ta bằng ý chí và lời 
nói, được Ông gọi là “Đoán Quyết” (đoán trúng). Những địa danh này ngày nay nằm ở 
các xã Thiệu Phúc, Thiệu Hưng, Thiệu Long của huyện Thiệu Hóa và xã Định Thành, 
huyện Yên Định. Một lần Lê Lợi hành quân qua bản Mường thấy cảnh diễn trò, đặt tên 
là “Làng Trò” (Vân Am, Ngọc Lặc); qua một bản Thái hành quân đói lả, dân làng dâng 
niu cơm, trong có nhiều cát bèn gọi là “làng Năng Cát”7. Một địa danh ở xã Ngọc Khê 
(huyện Ngọc Lặc) khi đang bị quân Minh truy đuổi, không biết tìm đường nào tiện để 
thoát gọi là “làng Túng” (lúng túng), được chỉ nơi vượt qua gọi là “núi Chan” (chan 
chứa hy vọng thoát giặc), đầu dốc mà quân Minh ngỡ Lê Lợi sẽ qua nhằm đón lõng bắt 
gọi là “dốc Ngán” (giặc ngao ngán vì bị đánh lạc hướng). Các giai thoại tương tự đều 
gặp lại trong tên gọi làng Hương (Thọ Xuân), làng Nhân (Thường Xuân), làng Sắt 
(Ngọc Lặc), chòm Thiu, chòm Đỏ, bãi Lạnh, núi Mục, núi Dầu, mả Ngô, giếng Hộ 
Quốc, thác Ma Ngao, đền Quốc Mẫu... Có thể thấy, trong số các truyền thuyết, cổ tích 
và giai thoại dân gian gắn với Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn thì số lượng truyền 
thuyết về địa danh, nhất là địa danh theo quan niệm dân gian do Lê Thái Tổ trực tiếp đặt 
tên để lưu niệm các sự kiện chiếm số lượng khá lớn, lên đến 2/3 trong toàn bộ kho tàng 
sáng tác dân gian về khởi nghĩa Lam Sơn. 
 Về loại truyền thuyết gắn với chuyện thu phục nhân tâm, quy phục hào kiệt, xả 
thân cứu chúa tuy chiếm số lượng khiêm tốn nhưng có tính lan tỏa cao. Trong số những 
truyền thuyết này, chuyện Lê Lai cứu chúa được xem như một biểu trưng ngời sáng, 
5 Vũ Ngọc Khánh (1973), Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn, Nxb Thanh Hóa, tr 5. 
6 Quỳ Chữ nghĩa là Bến rau Quỳ 
7 Năng Cát: năng là cái niu đựng cơm theo tiếng Thái 
52 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
quên mình vì nghĩa, là sự thắng lợi của “hai người được chọn” (trời chọn Bình Định 
Vương, Lê Lợi chọn Lê Lai). Chuyện Lê Lai cứu chúa cũng đi vào tâm thức dân gian 
trở thành cửa miệng phần nhiều có yếu tố tín ngưỡng “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê 
Lợi”. Các truyền thuyết khác lại gợi lên sự cảm động như chuyện Nguyễn Trãi, Trần 
Nguyên Hãn đi tìm minh chủ, chuyện Hòn đá Khao, chuyện gia đình Lưu Trung, Lưu 
Nhân Chú và Phạm Cuống phù Lê Lợi, chuyện kết nạp Lê Văn Linh người nổi tiếng với 
“Bài văn đuổi hổ”, hay giai thoại tri ân Tuyên nghĩa hầu Thái Phú (một tướng giỏi quân 
Minh hàng nghĩa quân bị chết)... đều được xây dựng mộc mạc, nói lên sự hấp dẫn, “sức 
lan tỏa” tự nhiên về tính cách của Lê Thái Tổ. 
 4. Một vài kết luận được rút ra 
 Thông qua hệ thống truyền thuyết gắn với Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn được 
lưu truyền và lấy bối cảnh chủ yếu trên đất Thanh, có thể nhận xét một số vấn đề cơ bản 
như sau: 
 - Nhìn chung, kho tàng văn hóa dân gian mang nội dung phản ánh khởi nghĩa Lam 
Sơn thể hiện “tính cách dân gian”, dân dã, mộc mạc trong nguyên lý sáng tác. Từ chủ 
đề, nhân vật, lời thoại cho đến hình ảnh biểu tượng. Tất cả đều gần gũi với đời sống 
người dân trong đó người anh hùng dân tộc Lê Lợi hiện lên ở vị trí trung tâm. Ngay 
phương pháp tạo dựng hình ảnh người anh hùng thì ngoài một số ít chuyện thiêng liêng 
(như chuyện Ấn, gươm, chuyện âm hồn cứu sống...) còn lại là những truyền thuyết mà ở 
đó chủ tướng Lam Sơn rất tình, rất người, chan hòa và thông cảm với đời sống khổ cực 
của quần chúng, chấp nhận sự sẻ chia, bao bọc của quần chúng. Tổng hòa hai khía cạnh 
này làm cho ta thấy, Lê Lợi hiện lên trong truyền thuyết đôi khi thấp thoáng thiêng- tục, 
yếu tố lịch sử và huyền thoại được hòa quyện, khó được tách biệt rạch ròi. 
 - Hệ thống truyền thuyết cũng cho thấy tính hấp dẫn, sức lan tỏa tự nhiên, lôi cuốn 
cả về hình dáng, tính cách, xử thế và phong thái của Bình Định Vương. Đủ mọi giới, 
tuổi, thành phần xuất thân, từ nhân vật lịch sử đến những người vô danh tề tựu xung 
quanh Ông. Ông là hạt nhân hấp thu các “vệ tinh cá tính”, quán xuyến và gợi cảm hứng 
cho toàn bộ cuộc khởi nghĩa, là “mẫu hình chuẩn mực”, một anh hùng xuất hiện kịp 
thời, đúng lúc để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng như lời Nguyễn Trãi 
từng nói trong Cáo Bình Ngô (Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo 
trừ bạo). 
 - Các truyền thuyết, giai thoại, chuyện kể về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 
trên đất xứ Thanh không phải là những tài liệu lịch sử, nó là những sáng tác nghệ thuật về 
đề tài lịch sử. Nhưng với tính chất và ý nghĩa của dã sử, nó góp phần bổ sung tư liệu để 
làm sâu sắc hơn chủ đề về lịch sử. Các truyền thuyết này như là những tư liệu dân gian, 
như là một dạng “nhật ký hành quân” về khởi nghĩa Lam Sơn và Bình Định Vương Lê 
Lợi dưới góc nhìn dân gian hóa (khác với ghi chép sử học trong các pho sử đương thời 
 53 
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 
như Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục...). Nó là lịch sử được tái tạo chứ không 
đơn thuần được tái hiện. Như lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Những 
truyền thuyết dân gian thường có cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân, qua nhiều thế hệ, 
lý tưởng hóa, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình, cùng với thơ và mộng”8. 
 - Kho tàng truyền thuyết liên quan chủ đề khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng 
dân tộc Lê Lợi vừa khẳng định, ngợi ca tình đồng chí, tình quân dân, đồng thời phản ánh 
sự đoàn kết, cộng cảm, đùm bọc trong sợi dây giao thoa văn hóa Việt - Mường - Thái. 
 Tài liệu tham khảo 
 [1]. Vũ Ngọc Khánh (1979), Đất Lam Sơn, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 
 [2]. Vũ Ngọc Khánh (2004), Lê Lợi và đất Lam Sơn, Nxb Văn hóa Thông tin. 
 [3]. Vũ Ngọc Khánh (2009), Lê Lợi - con người và sự nghiệp, Nxb Thanh Hóa. 
 [4]. Vũ Ngọc Khánh (1973), Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn, Nxb Thanh Hóa. 
 [5]. Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa (1985), Sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi 
nghĩa Lam Sơn, Thanh Hóa. 
 [6]. Nguyễn Diên Niên - khảo chứng, Lê Văn Uông - chú dịch (2006), Lam Sơn 
thực lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
 [7]. Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn (1977), Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427), 
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
 LEGENDS ON NATIONAL HERO LE LOI IN THANH LAND 
 Ha Dinh Hung, Ph.D student 
 Abstract: In Thanh land, traces of Lam Son uprising have been preserved so far. 
In terms of folklore, a system of legends and tales associated with Lam Son uprising and 
national hero Le Loi have become an interesting scientific theme. Along with good 
contents and significances, legends on national hero Le Loi associated with Lam Son 
uprising in Thanh land have provided us with a more comprehensive understanding on 
thoughts and emotions of people to Lam Sown uprising in general and national hero Le 
Loi in particular. 
 Keywords: Le Loi, Lam Son uprising, legends, folklore 
8 Phạm Văn Đồng, Nhân ngày giỗ tổ vua Hùng, Báo Nhân dân, ngày 29 - 11 - 1969 
54 

File đính kèm:

  • pdfnhung_dang_thuc_cua_truyen_thuyet_ve_le_loi_tren_dat_xu_than.pdf