Nhận thức của sinh viên và thực tế sử dụng ngôn ngữ đích trong dạy/học thực hành tiếng Pháp 4
Thực tế giảng dạy cho thấy sinh viên tiếng Pháp, đặc biệt là sinh viên D1 (có đầu vào tiếng Anh)
có nhiều khó khăn trong tiếp thu và tương tác bằng ngôn ngữ đích ở các học phần Thực hành tiếng. Để
tìm hiểu nguyên nhân, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát nhận thức của người học và thực tế sử
dụng tiếng Pháp trong dạy/học ngoại ngữ nói chung và trong các học phần Thực hành tiếng 4 nói riêng.
Kết quả khảo sát bằng bảng hỏi trực tuyến 43 sinh viên năm 2 năm học 2019-2020 và phỏng vấn sâu 6
giảng viên giảng dạy Thực hành tiếng cho thấy phần lớn họ đều nhận thức được ảnh hưởng tích cực của
việc sử dụng ngôn ngữ đích đến quá trình tư duy, lĩnh hội, rèn luyện và tương tác bằng lời. Nhưng trên
thực tế tần suất sử dụng ngôn ngữ đích lại rất hạn chế và còn nhiều bất cập. Nghiên cứu cũng đưa ra
một số kiến nghị nhằm tăng cường việc sử dụng ngôn ngữ đích hợp lý hơn và hiệu quả hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức của sinh viên và thực tế sử dụng ngôn ngữ đích trong dạy/học thực hành tiếng Pháp 4
dạy/học ngoại ngữ, đặc biệt là dạy/học các kỹ năng Thực hành tiếng (trong đó sinh viên nhóm 1 chiếm 88,9%, nhóm 2 chiếm 86,9% và nhóm 3 chiếm 81,8%). Chỉ có 11,6% không bày tỏ ý kiến về vấn đề này (xem bảng 1). Bảng 1. Tỉ lệ sinh viên đồng thuận việc sử dụng ngôn ngữ đích trong dạy/học Thực hành tiếng Nhóm 1 (N1) Nhóm 2 (N2) Nhóm 3 (N3) Tổng (N1+N2+N3) Số SV Tỉ lệ % Số SV Tỉ lệ % Số SV Tỉ lệ % Tổng Tỉ lệ % Đồng ý 08 88,9 20 86,9 9 81,8 38 88,4 Không đồng ý 00 00 00 00 00 00 00 00,0 Không có ý kiến 01 11,1 3 13,1 2 18.2 05 11,6 Tổng 09 23 11 43 100 Theo sinh viên, ưu tiên sử dụng ngôn đích như ngôn ngữ dạy học đem lại nhiều lợi ích: tạo điều kiện cho người học thực hành tiếng Pháp, đặc biệt phát triển khả năng Nghe và Nói (chiếm 93%), để người học quen dần với ngôn ngữ đích ở góc độ ngữ âm (nhận diện âm, ngữ điệu, trọng âm, phát âm,) (chiếm 90,6%), tạo một môi trường Pháp ngữ gần với thực tế để người học tiếp thu, phản xạ và rèn luyện thuận lợi hơn (chiếm 79,1%), là điều kiện để người học dễ ghi nhớ tiếng Pháp (39,5%) và đạt được yêu cầu ra của học phần (34,9%). Chỉ có 16,3% số sinh viên khẳng định việc sử dụng ngôn ngữ đích sẽ kích thích trí tò mò của người học và để « Phát triển khả năng tư duy, tự phân tích, tự hiểu và nắm được nội dung chính khi giảng viên giảng bài bằng ngôn ngữ đích » (SV19,32) Chúng tôi cũng nhận được những ý kiến tương tự từ phía giảng viên. Họ nhấn mạnh thêm: “khi lặp đi lặp lại một cách vô thức sẽ tạo phản xạ có điều kiện, tạo thói quen suy nghĩ bằng ngôn ngữ đích, tạo ra phản ứng ngay, nhanh. Lúc đầu có thể chậm nhưng dần dần sinh viên sẽ quen và kết quả là tiếp xúc với người bản xứ thuận lợi hơn” (GV1,2,3). Như vậy, quá trình nghe giảng và lặp đi lặp lại bằng ngôn ngữ đích sẽ giúp người học lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả, tạo thói quen và phản xạ nhanh dần và cho phép việc dạy/học ngoại ngữ đạt mục đích đã đề ra trong chương trình đào tạo (GV4). Giảng viên cũng cho rằng ưu tiên sử dụng ngôn ngữ đích sẽ giúp sinh viên hạn chế tiếp xúc với tiếng mẹ đẻ bởi vì “Sử dụng tiếng mẹ đẻ thì sẽ tạo thói quen suy nghĩ bằng tiếng mẹ đẻ, điều này không có lợi và thường gây ra lỗi nói, viết” (GV1,2,4). Tuy nhiên, giảng viên cũng không phủ nhận lợi ích làm « yên lòng sinh viên » mà tiếng mẹ đẻ đem lại và tránh được việc sinh viên hiểu sai kiến thức (GV1,2). 4.2. Thực tế sử dụng ngôn ngữ đích: thuận lợi và khó khăn Mặc dù nghiên cứu nhận được những phản hồi rất tích cực của sinh viên về tầm quan trọng của việc ưu tiên sử dụng ngôn ngữ đích trong dạy/học ngoại ngữ, nhưng trên thực tế sinh viên có tần suất sử dụng tiếng Pháp rất hạn chế và diễn đạt gặp nhiều khó khăn. Chúng tôi sẽ trình bày một số thuận lợi và khó khăn khi sử dụng tiếng Pháp trong các học phần Thực hành tiếng 4. 4.2.1. Thuận lợi Thứ nhất, đội ngũ giảng viên tiếng Pháp có năng lực, có thâm niên giảng dạy từ 6 năm đến 25 năm và 100% giảng viên được đào tạo ở nước ngoài. Đây là một lợi thế để giảng viên sử dụng ngôn ngữ đích. Thứ hai, vào đầu học kỳ 4, sinh viên đã học được một số kiến thức ngôn ngữ Pháp (tương đương với cấp độ A2.1). Với trình độ này, sinh viên có thể hiểu và diễn đạt bằng ngôn ngữ đích: « Em cảm thấy nếu đã học ở Thực hành tiếng 4 thì sinh viên có thể đàm thoại hoàn toàn bằng tiếng Pháp. » (SV1). Có lẽ vì lý do này mà khi được hỏi về tần suất và tỉ lệ sử dụng tiếng Pháp của giảng viên (dao động từ 40% đến 60% tùy theo kỹ năng và trình độ của sinh viên), 67% số sinh viên được hỏi đánh giá là phù hợp với họmặc dù họ có nhiều khó khăn khi tiếp thu và diễn đạt (xem bảng 2). Bảng 2. Tần suất sinh viên gặp khó khăn khi nghe giảng viên sử dụng tiếng Pháp Luôn luôn Khá thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi Không bao giờ Nhóm 1 00 03= 33,3% 05 = 55,6% 01 = 11,1% 00 Nhóm 2 03 = 13% 11= 47,8% 08 = 34,8% 01 = 4,3% 00 Nhóm 3 02 = 18,2% 06 = 54,5% 03 = 27,3% 00 00 Tổng 05 = 11,6% 20 = 46,5% 16 = 37,2% 02 = 4,7% 00 4.2.2. Khó khăn Khó khăn đầu tiên đó là có đến 79% số sinh viên được hỏi có đầu vào là D1 (tiếng Anh). Vốn kiến thức có trước này đã gây ra một số chuyển di tiêu cực (GV1,2,3,4,5). Khó khăn thứ hai liên quan đến sự khác biệt trong phản ứng của các giảng viên dạy trong cùng một nhóm lớp khi sinh viên không hiểu tiếng Pháp (GV1,2,3). Nghiên cứu cho thấy có 2 cách phản ứng khác nhau: 67% số giảng viên được hỏi khẳng định rất kiên trì trình bày lại nhiều lần bằng tiếng Pháp với câu, từ đơn giản hơn và kết hợp với kênh viết, hình ảnh, phi ngôn ngữ trước khi phải can thiệp bằng tiếng Việt nếu điều đó là cần thiết để tránh hiểu nhầm hoặc sử dụng ngoại ngữ 2 (tiếng Anh) nếu có tương đồng với tiếng Pháp hơn tiếng mẹ đẻ, trong khi đó chỉ có 33% số giảng viên được hỏi thú nhận khi sinh viên không hiểu thì “chuyển ngay sang tiếng mẹ đẻ để đỡ mất thời gian” (GV4,6). Bên cạnh yếu tố thời gian là sự ràng buột về nội dung chương trình dạy học phải hoàn thành (GV4). Khó khăn thứ ba, đó là phản ứng của sinh viên. Khi không hiểu tiếng Pháp, sinh viên thường phản ứng bằng phi ngôn ngữ (im lặng, cuối mặt xuống, dùng ánh mắt, nhăn mặt, đơ người v.v) và bằng ngôn ngữ (tiếng Pháp, tiếng Việt) (xem Bảng 3). Bảng 3: Tần suất phản ứng của sinh viên khi không hiểu tiếng Pháp Tổng % Nhóm 1+2+3 Tần suất giảm dần từ 1 đến 5 1+2 1 % 2 % 3 % 4 % 5 % □ Yêu cầu GV lặp lại, giải thích lại bằng tiếng Pháp 18,6% 3 7 5 11,6 7 16,3 16 37,2 1 2,3 □ Yêu cầu GV lặp lại, giải thích lại bằng tiếng Việt 34,9% 0 00 15 34,9 22 51,2 5 11,6 0 00 □ Giữ im lặng 41,9% 2 4,7 16 37,2 11 25,6 9 20,9 5 11,6 □ Biểu lộ trên khuôn mặt 41,9% 7 16,3 11 25,6 12 27,9 7 16,3 5 11,6 □ Tránh cái nhìn của GV 23,3% 4 9,3 6 14 9 20,9 12 27,9 12 27,9 □ Dùng translate dịch ra t.Việt 34,9% 4 9,3 11 25,6 18 41,9 6 14 6 14 □ Tra từ điển Pháp-Việt trực tuyến 62,8% 8 18,6 19 44,2 13 30,2 3 7 1 2,3 □ Hỏi bạn ngồi cạnh bằng t.Việt 60,4% 9 20,9 17 39,5 10 23,3 3 7 3 7 Những phản ứng như là tránh cái nhìn của giảng viên, sử dụng translate hay tra từ điển, hỏi bạn ngồi bên cạnh được giảng viên đánh giá là không tích cực (GV1,2,3,4). Biểu đồ 1: Nguyên nhân và tần suất sinh viên gặp khó khăn Theo giảng viên, nguyên nhân sinh viên gặp khó khăn khi nghe hiểu và diễn đạt bằng tiếng Pháp đến từ hai phía: người học và người dạy. Về phía người dạy, nguyên nhân chính làm cho việc tiếp thu và diễn đạt bằng tiếng Pháp không hiệu quả đó là: tính phức tạp, chưa rõ ràng (GV1,2,3,5,6), sử dụng tiếng Việt khi chưa cần thiết (GV1,2). Về phía người học, bên cạnh những yếu kém về ngôn ngữ, văn hóa, thói quen nghe và dùng tiếng Việt hay song ngữ Pháp-Việt (xem biểu đồ 1ở trên), thì động cơ học tập, tinh thần trách nhiệm với việc học của họ chưa tốt, họ chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ đích: “Giảng viên tâm huyết một phần, quyết định tùy vào sinh viên nữa. Cái quan trọng là động cơ học tập của người học”, “Sinh viên chưa thấy được ích lợi của việc sử dụng ngôn ngữ đích, cứ nghĩ là giảng viên làm khó, làm vất vả mấy em” (GV1),...Cuối cùng là thời gian luyện tập ở lớp và ở nhà chưa đủ: “Giảng viên nói nhiều, sinh viên không có cơ hội nói nhiều, sinh viên nghe nhiều hơn nói” (GV6). “Thời gian thực hành, tự học ít”, “Khi học rồi, nhưng sinh viên không có biểu hiện có sự luyện tập ở nhà” (GV1,4). Điều này lý giải phần nào về khó khăn tiếp thu và diễn đạt của sinh viên. 5. Thảo luận và kiến nghị Nghiên cứu cho thấy sinh viên có nhận thức tốt về việc sử dụng tiếng Pháp trong dạy/học ngoại ngữ, đặc biệt là trong các học phần Thực hành tiếng, nhưng chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của tiếng Pháp trong lĩnh hội, rèn luyện kiến thức mới. Hệ quả là: sinh viên chưa cố gắng trong việc tiếp cận tiếng Pháp bằng ngôn ngữ đích và có những phản ứng chưa tích cực. Thêm vào đó, giảng dạy bằng song ngữ Pháp – Việt của thầy đã hình thành thói quen xấu ở trò: chờ đợi và phản ứng bằng tiếng Việt (GV1,2). Một nguyên nhân khác nữa đó là phần lớn sinh viên có đầu vào là tiếng Anh nên việc tiếp thu một ngoại ngữ thứ 2 (tiếng Pháp) sẽ gặp phải những hiện tượng như giao thoa ngôn ngữ, chuyển di tiêu cực, v.v... ở góc độ ngữ âm, từ vựng, cú pháp, v.v Từ những nguyên nhân này, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau nhằm đẩy mạnh việc sử dụng ngôn ngữ đích hiệu quả hơn trong dạy/học Thực hành tiếng. 5.1. Đề xuất đối với Trường và Khoa Tiếng Pháp –Tiếng Nga - Tăng cường hợp tác với các Khoa, Trường có sử dụng tiếng Pháp để sinh viên có thêm môi trường, động lực sử dụng tiếng Pháp dưới nhiều hình thức: thi viết chính tả (để rèn luyện nghe/viết), tổ chức câu lạc bộ Tiếng Pháp, các hoạt động ngoại khóa, đọc thơ tiếng Pháp, v.v - Cần duy trì việc phụ đạo “luyện phát âm” cho sinh viên năm thứ nhất (SV1). Mời giảng viên bản địa đến dạy và tham gia vào việc luyện âm cho sinh viên. - Tập huấn giáo viên: nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng tiếng Pháp trong dạy/học ngoại ngữ và từ đócó sự thống nhất về việc sử dụng ngôn ngữ đích từ năm thứ nhất để tạo thói quen tốt cho sinh viên. 5.2. Đề xuất đối với giảng viên tiếng Pháp - Cần sử dụng tiếng Pháp một cách hợp lý, hiệu quả và luôn tạo điều kiện nhiều nhất có thể cho sinh viên rèn luyện Nghe, Nói tại lớp bằng ngôn ngữ đích. Để đạt điều đó, giảng viên cần chuẩn bịbài giảng, lời giảng thật kỹ, sử dụng ngôn từđơn giản, chính xácphù hợp với từng trình độ nhóm lớp vàcần đa dạng các hoạt động dạy/học, cung cấp cho sinh viên những công cụ ngôn ngữ cần thiết để diễn đạt dựa theo nhu cầu thực tế của họ và khuyến khích họ diễn đạt (GV5). Bằng cách này, một mặt giảng viên có thể hạn chế được nguyên nhân “thiếu thời gian”, mặt khác có thể tạo hứng thú học tập cho sinh viên. Ở đây chúng tôi đồng quan điểm với tác giả Nguyễn Thị Như Quỳnh (2011): Nếu chuẩn bị tốt bài giảng, giảng viên có thể giải quyết các khó khăn bằng ngôn ngữ đích mà không cần sự hỗ trợ của tiếng mẹ đẻ. - Ngay từ năm đầu tiên của bậc đại học, giảng viên cần cho sinh viên quen dần với việc nghe, nói bằng tiếng Pháp để hình thành nề nếp, thói quen tốt và cho sinh viên hiểu được những lợi ích mà ngôn ngữ đích mang lại trong dạy/học ngoại ngữ. 5.3. Đề xuất đối với sinh viên - Cần chủ động hơn trong việc học, có ý thức và trách nhiệm về việc học của mìnhđể tăng hiệu quả nghe hiểu và diễn đạt tiếng Pháp tại lớp: Rèn luyện thêm giao tiếp bằng tiếng Pháp với “đôi bạn học tập” (GV4), tham gia vào các hoạt động ở trường, tăng cường luyện tập ở nhà theo đúng quy định hướng dẫn của loại hình đào tạo tín chỉ: học 1 tiết tại lớp thì phải tự học 3 tiết ở nhà. - Cần có nhận thức đúng về vai trò của ngôn ngữ đích trong dạy/học ngoại ngữ và đặc biệt là trong dạy/học các học phần Thực hành tiếng. Tham gia các hoạt động học tại lớp với tinh thần: Không ngại khó, mạnh dạn phát biểu, không sợ sai. 6. Kết luận Không có phương pháp dạy học nào là hoàn hảo. Điều quan trọng là người dạy phải biết kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với lớp học của mình. Tuy nhiên, trong phạm vi một Khoa, nên có một chính sách chung cho các giảng viên dạy Thực hành tiếng: ưu tiên sử dụng tiếng Pháp trong dạy/học. Phải thừa nhận rằng việc lựa chọn ngôn ngữ đích để giao tiếp trong lớp học tùy thuộc nhiều từ người dạy cũng như người học. Tuy nhiên, người dạy luôn đóng vai trò quyết định và có ảnh hưởng lớn đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm đầu của bậc đại học. Ảnh hưởng này càng lớn và hiệu quả hơn khi cả nười dạy và người học nhận thức đúng vai trò của ngôn ngữ đích trong dạy/học ngoại ngữ. Tài liệu tham khảo Bozhinova, K. (2014). Enseignement/apprentissage du français langue étrangère et développement de la compétence plurilingue. Pedagogy, 86, (5), 690-696. Castellotti, V. (2001). La langue maternelle en classe de langue étrangère. Paris : CLE International. Castellotti, V., & Moore, D. (2002). Représentations sociales des langues et enseignements. Strasbourg : Conseil de l’Europe. Cavalli, M. (2005). Éducation bilingue et plurilinguisme. Le cas du Val d’Aoste. Paris : Didier. Gajo, L. (2006). « L’intercompréhension entre didactique intégrée et enseignement bilingue ». A paraître dans les Actes du colloque « L’intercompréhension entre langues voisines », organisé par la DLF (CIIP, Suisse) les 6-7 novembre 2006, Genève. Giroux, L. (2016). La place et le(s) rôle(s) de la langue maternelle des apprenants en cours de langue étrangère, Synergie France N010, 55-68. Hanna, A.(2017). L'utilisation de la langue cible et les méthodes de l'immersion linguistique dans les cours de FLE en Finlande, Mémoire de maîtrise, Université de Tampere. Nguyễn Thị Hồng Minh, Nguyễn Thị Thu Hương, Nguyễn Thị Ngọc Lan, (2019). Nghiên cứu việc sử dụng ngôn ngữ đích trong lớp học của giáo viên tiếng Anh cấp Tiểu học ở thành phố Sông Công, Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, tr. 93-100. Nguyễn Thị Như Quỳnh, (2011). Tiếng Việt - Hỗ trợ hay trở ngại cho việc học tiếng Anh, Tạp chí Tiếng Anh: https://ioe.vn/chi-tiet/tap-chi-tieng-anh/tieng-viet-ho-tro-hay-tro-ngai-cho-viec-hoc-tieng-anh-5-1494 Thevenin, M. (2015). Quelle(s) langue(s) médiatrice(s) en cours de FLE ? Formation du FLE. (Truy cập vào ngày 10 tháng 9 năm 2020) file:///D:/2020%202021/HTLN%206%20bai%20bao/bai%20bao%20gui%20HTlan6/THEVENIN_Marie.pdf Trần Đình Bình (2012). Ngôn ngữ học với việc dạy học tiếng Pháp, Ngôn ngữ. 10: https://tailieu.vn/doc/ngon-ngu-hoc-voi-viec-day-hoc-tieng-phap-2033410.html Rea Lujić (2018). Quelle(s) langue(s) médiatrice(s) choisir en classe de langue étrangère ?, Recherches en didactique des langues et des cultures [En ligne], 15-3 | 2018, mis en ligne le 01 septembre 2018, consulté le 07 octobre 2020. URL : ; DOI : https://doi.org/10.4000/rdlc.3764 STUDENTS’ AWARENESS AND ACTUAL USE OF TARGET LANGUAGE IN TEACHING/LEARNING FRENCH PRACTICE 4 Abstract: Teaching reality shows that French majored students, especially D1 students (with English input), have many difficulties in acquiring and interacting in the target language in Language Practice modules. To find out the causes, our research team has conducted a survey on learners’ awareness and actual use of French in teaching/ learning foreign language in general and in Language Practice 4 in particular. The results of the online questionnaire survey of 43 second year students of the academic year 2019-2020 and in-depth interviews with 6 lecturers teaching Language Practice show that most of them are aware of the positive impact of using the target language on the process of thinking, comprehending, practicing and verbal interaction. But in fact, frequency of using the target language is very limited and has many shortcomings. The study also proposes some recommendations to increase the use of the target language more rationally and effectively. Key words: awareness - target language – verbal interaction – D1 students
File đính kèm:
- nhan_thuc_cua_sinh_vien_va_thuc_te_su_dung_ngon_ngu_dich_tro.pdf