Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch

Hiện nay, người phụ nữ ngày càng có vị thế cao trong xã hội với vai

trò dần dần được khẳng định trong mọi ngành nghề. Lực lượng lao

động nữ trong ngành du lịch ở nước ta cũng không nằm ngoài quy luật

ấy. Với số lượng lao động ưu thế, cùng những đặc điểm riêng biệt, họ

đang trở thành một thành phần quan trọng để phát triển ngành dịch vụ

du lịch. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp thống kê; phân tích tư

liệu; điều tra xã hội học để có cái nhìn tổng thể về đặc điểm nhân lực

ngành du lịch từ góc nhìn về giới. Từ đó, bài viết đưa ra một số đặc

điểm cơ bản của lực lượng lao động nữ trong ngành du lịch ở Việt

Nam và đề xuất nhằm phát huy khả năng của nguồn nhân lực này

trong phạm vi ngành.

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 1

Trang 1

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 2

Trang 2

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 3

Trang 3

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 4

Trang 4

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 5

Trang 5

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 6

Trang 6

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 7

Trang 7

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 8

Trang 8

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 6560
Bạn đang xem tài liệu "Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch

Nhận diện một số đặc điểm của lao động nữ trong hoạt động du lịch
Chính vì vậy, hiệu suất làm việc đối với nữ giới rất thấp, không tạo ra tính ổn định, họ 
thường cống hiến cho ngành trong một khoảng thời gian rất ngắn. Điều này là hạn chế rất lớn của 
việc sử dụng nhân lực trong ngành du lịch, cần có các biện pháp khắc phục cụ thể. 
Thứ tư, lực lượng lao động nữ tập trung ở các nghề mang tính ổn định, ít di chuyển trong khối 
nghề dịch vụ du lịch 
Hình 2. Biểu đồ cơ cấu lao động theo giới tính các khối ngành dịch vụ du lịch 
(Nguồn: Báo cáo thường niên du lịch Việt Nam [17]) 
Nhìn vào biểu đồ Hình 2 cho thấy, khối lao động nữ thường tập trung ở các nghề như: Văn 
phòng (69,5%), thông tin, vui chơi giải trí, dịch vụ chăm sóc sắc đẹp (95%), bàn (54,5%), phục 
vụ buồng (89,9%), hướng dẫn viên tại điểm (62,3%) [17]... Số lượng lao động nữ có mặt tại các 
ngành mang tính di chuyển cao như hướng dẫn, vận chuyển,... và yêu cầu sức khỏe cao (bếp, 
nhân viên hành lý,) chiếm số lượng rất ít hoặc hầu như không có. Hơn thế, trong khối ngành 
0
20
40
60
80
100
Văn
phòng
Chăm 
sóc sắc 
đẹp 
Buồng Bàn Bếp Hướng 
dẫn viên 
tại điểm 
Hướng 
dẫn viên 
suốt 
tuyến 
Nữ 
Nam
Đơn vị: % 
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 416 - 424 
 421 Email: jst@tnu.edu.vn 
hướng dẫn, số lượng lao động nữ thường tập trung tại vị trí hướng dẫn viên tại điểm, hướng dẫn 
viên suốt tuyến thường là nam giới, số lượng hướng dẫn viên suốt tuyến là nữ giới rất ít (29,7%), 
hoặc chỉ làm việc một thời gian, sau đó chuyển sang các khối ngành khác ít di chuyển hơn nhưng 
đòi hỏi kinh nghiệm hướng dẫn như điều hành tour, thiết kế tour..., thậm chí, chuyển hẳn sang 
khối ngành nghề khác không liên quan đến du lịch. 
Lý giải điều này là do nữ giới với trách nhiệm gia đình và đặc điểm thiên chức quy định, nữ 
giới thường lựa chọn những công việc mang lại hiệu quả cao nhưng rảnh rỗi về thời gian, ổn định 
và ít phải đi lại. Đồng thời, các nghề dịch vụ trong ngành du lịch có lượng lao động nữ chiếm ưu 
thế thường là các khối nghề yêu cầu sự tỉ mẩn, cần mẫn và khéo léo, điều này lao động là nam 
giới thường không có ưu thế bằng nữ giới. Chính vì vậy, lựa chọn nữ giới làm việc cho các khối 
ngành kể trên có thể được coi là xu hướng phù hợp. 
Tuy nhiên, đặc điểm này cũng đã khẳng định một thực tế trong ngành du lịch, phụ nữ thường 
chỉ được làm những công việc thuần túy mà không có cơ hội làm việc ở cấp độ chuyên nghiệp, 
mang tính chuyên môn cao. Điều này do rất nhiều yếu tố quy định như: Tuổi nghề ngắn, không 
có điều kiện thể hiện trình độ chuyên môn hoặc do yếu tố chuyên môn thấp; do các áp lực từ gia 
đình, từ xã hội... 
Thứ năm, lượng lao động nữ làm quản lý, điều hành ngày càng tăng cả về chất và số lượng 
Tỷ lệ nữ giới làm quản lý và điều hành tại các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch ngày càng 
tăng, tại các cơ sở kinh doanh du lịch cũng được nâng lên (chiếm 11% tổng số lao động và 19% 
tổng số lao động nữ) [18]. Điều này khẳng định, lao động nữ trong ngành du lịch ngày càng tăng 
mạnh cả về số lượng và chất lượng. 
Có thể thấy, “du lịch đang thực sự trở thành một phương tiện trao quyền cho phụ nữ khi tạo 
cơ hội tốt cho họ tham gia vào lực lượng lao động” [19], trở thành các nhà quản lý, các nữ doanh 
nhân trong ngành du lịch. Thực tế cũng cho thấy rằng, vai trò quản lý, lãnh đạo của phụ nữ trong 
lĩnh vực du lịch cũng nhiều hơn so với các lĩnh vực khác. 
Thứ sáu, phụ nữ trong ngành du lịch chiếm tỷ lệ lao động tự tạo và lao động tự do rất cao 
Đây thường là các lao động trong các doanh nghiệp du lịch gia đình hoặc tự kinh doanh, tự 
phát như: bán hàng lưu niệm tại các điểm – khu du lịch, cung cấp dịch vụ ăn – uống, ngủ - nghỉ... 
mà không có sự đào tạo bài bản về chuyên môn và trình độ nghiệp vụ. Họ làm du lịch đơn thuần, 
không bền vững, theo mùa vụ và thường coi các hoạt động trong dịch vụ du lịch là nghề phụ. Dĩ 
nhiên, họ cũng không hề được hưởng những chính sách, bảo trợ xã hội về nghề nghiệp. 
Như vậy, thông qua một số đặc điểm khái quát trên về nguồn lao động nữ trong ngành du lịch, 
bài viết đã nêu và phân tích một cách cơ bản những đặc điểm chung nhất của lao động nữ trong 
khối ngành dịch vụ du lịch. Từ đó, có thể thấy được số lượng lao động nữ trong ngành ngày càng 
tăng, nhưng chất lượng vẫn còn thấp, thời gian cống hiến với nghề so với nam giới vẫn còn rất 
ngắn, cần phải có định hướng cụ thể thì vai trò của người phụ nữ trong ngành mới được phát huy 
lâu dài. 
Thứ bảy, nhờ có việc làm do du lịch mang lại, phụ nữ tại các vùng dân tộc khó khăn có cơ hội 
thay đổi vị trí truyền thống của mình trong gia đình và xã hội 
Trước đây, khi du lịch chưa đến những cộng đồng vùng sâu vùng xa như các gia đình 
H’Mông ở Sapa – Lào Cai, người Thái ở Mai Châu,... với nền kinh tế nương rẫy, vai trò của 
người chồng là làm chủ kinh tế, là hạt nhân gia đình, còn người phụ nữ ít có cơ hội quyết định, 
tham gia vào các vấn đề quan trọng. 
Tuy nhiên, khi phụ nữ tại các cộng đồng này tham gia vào hoạt động du lịch như sản xuất và 
bán hàng thổ cẩm, bán hàng lưu niệm, dẫn khách du lịch,... thu nhập của họ tăng dần, bằng hoặc 
hơn thu nhập cả gia đình khi chỉ sản xuất nông nghiệp. Từ đó, vai trò người phụ nữ trong gia đình 
ngày càng được nâng cao. Thậm chí, trước kia người phụ nữ tại những vùng này không được 
tham gia vào các hoạt động đối nội, đối ngoại, nhưng giờ đây họ có thể tham gia vào các công 
việc đó như đi họp, tiếp khách,... 
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 416 - 424 
 422 Email: jst@tnu.edu.vn 
Như vậy, có thể thấy rằng, du lịch đã tạo ra những ngành nghề mới, thu hút người phụ nữ tại 
các vùng dân tộc khó khăn tham gia vào các hoạt động du lịch, không những giúp người phụ nữ 
có việc làm và thu nhập ổn định, mà còn tạo cơ hội cho họ mở rộng giao tiếp, dần thoát ra khỏi 
những thiết chế trong một không gian chật hẹp của gia đình, vươn ra không gian xã hội, vị thế, 
tiếng nói của họ dần có trọng lượng hơn. 
3.2. Một số đề xuất 
Dựa vào sự phân tích trên, tác giả xin được đưa ra một số đề xuất nhằm phát huy vai trò của 
phụ nữ trong hoạt động du lịch như sau: 
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch 
Trong chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện Nghị quyết 
số 11- NQ/TW ngày 27/04/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước đã khẳng định “Phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện 
chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, đưa nước ta trở thành điểm sáng về thực 
hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, được quốc tế đánh giá cao”. Do đó “Vai trò và vị trí của phụ 
nữ Việt Nam trong sự nghiệp phát triển và xây dựng đất nước luôn được Đảng và Nhà nước ghi 
nhận, đánh giá cao và đã được thể chế hóa thông qua hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách 
nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực”. Từ đó, có thể thấy Nhà 
nước ta rất quan tâm đến vai trò của phụ nữ đối với các hoạt động kinh tế đất nước. Từ đó, có thể 
đưa ra một số đề xuất đối với cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch đối với lực lượng lao động nữ 
như sau: 
 Cần phải nâng cao nhận thức về vai trò kinh tế của người phụ nữ trong ngành du lịch thông 
qua các hoạt động hỗ trợ, tuyên truyền cụ thể; đồng thời, cần tăng cường các cơ sở pháp lý nhằm 
bảo vệ quyền lợi, an toàn cho lực lượng lao động nữ làm du lịch, đặc biệt đối với các khối nghề 
nhạy cảm như phục vụ chăm sóc thân thể, phục vụ nhà hàng... Phải có các quy định cụ thể về 
mức lương tối thiểu nhằm bảo đảm quyền lợi tài chính cho lao động nữ có thể phục vụ trong 
ngành lâu dài; cải thiện chế độ nghỉ dưỡng, thai sản cho phụ nữ trong ngành du lịch để họ có thể 
dành thời gian chăm sóc gia đình; tạo điều kiện cho lao động nữ làm những công việc tại nhà với 
thời gian linh hoạt. 
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch 
Cần tạo điều kiện cho lao động nữ phát huy thế mạnh của mình bằng cách thay đổi quan điểm 
như: cho họ tiếp cận với các vấn đề quan trọng như các vấn đề về tín dụng, đất đai, tài sản... và 
các vấn đề về chuyên môn như phụ trách về các chiến lược phát triển, hoạch định kế hoạch,... 
trong ngành du lịch. Đồng thời, hỗ trợ đào tạo cũng như hỗ trợ tài chính cho lao động nữ có thể 
tăng cường chuyên môn và nghiệp vụ của mình, đặc biệt là các kỹ năng kinh doanh, giá cả, liên 
kết thị trường,... có biện pháp hỗ trợ các lao động nữ là quản lý các cấp bằng cách chú trọng đãi 
ngộ, trọng dụng và tôn vinh nhân tài họ. 
Hơn thế nữa, thực tế cho thấy rằng cơ hội thành công của phụ nữ trong ngành du lịch không 
phải do họ không có năng lực, mà do họ chưa có cơ hội. Chính vì vậy, cần khuyến khích phụ nữ 
tham gia các hoạt động du lịch, các dự án du lịch ngay từ khi nó mới bắt đầu được hình thành để 
ghi nhận những đóng góp của họ. Khi tuyển dụng, các doanh nghiệp du lịch cần có sự bình đẳng 
trong các vị trí đối với nữ giới, tạo điều kiện cao nhất cho họ phát huy tiềm năng của mình. 
Đối với cộng đồng 
Luôn tuyên truyền cho cộng đồng nhận thức cũng như nắm rõ khả năng, tầm quan trọng của 
người phụ nữ trong hoạt động du lịch, đảm bảo những đóng góp của họ trong ngành du lịch luôn 
được ghi nhận bởi cộng đồng; khuyến khích sự hỗ trợ của gia đình, đặc biệt là từ người chồng để 
người phụ nữ có điều kiện tăng cường khả năng chuyên môn, có thời gian đầu tư cho công việc 
của mình; hạn chế phân biệt giới tính theo quan niệm truyền thống để họ có thể phát huy một 
cách tối đa các sáng kiến kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. 
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 416 - 424 
 423 Email: jst@tnu.edu.vn 
Đối với bản thân người lao động nữ 
Hơn bất cứ yếu tố nào, người lao động là nhân tố tiên quyết tạo ra sự thay đổi vai trò, vị thế 
của chính họ, từ đó, tạo điều kiện tốt hơn cho công việc và đem đến cho bản thân mình cơ hội 
thành công. Trước khi muốn thay đổi định kiến xã hội, nữ lao động trong lĩnh vực du lịch phải 
thay đổi định kiến của chính mình. Cần quan niệm rằng, nghề du lịch là một công việc lâu dài và 
bền vững, có thể đồng hành suốt cuộc đời, chứ không phải chỉ trong một khoảng thời gian ngắn 
khi chưa có gia đình, còn sức khỏe, vẻ đẹp, sự dẻo dai và niềm hứng khởi lên đường. Ở mỗi lứa 
tuổi, lao động nữ trong lĩnh vực lao động đều có thế mạnh riêng. Nguy cơ đào thải vì tuổi tác sẽ 
không xảy ra với điều kiện người lao động có ý thức tích lũy kiến thức, kĩ năng và rèn luyện sức 
khỏe. Thêm vào đó, vấn đề nhân lực nguồn lao động trong lĩnh vực du lịch ở nước ta còn một hạn 
chế lớn là lỗ hổng về trình độ. Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, mỗi năm toàn ngành cần 
thêm gần 40.000 lao động; nhưng chỉ có khoảng 20.000 lao động tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo 
[17]. Các con số này cho thấy, nguồn nhân lực không những thiếu về số lượng mà còn thiếu trầm 
trọng đội ngũ được đào tạo bài bản. Ngay cả với những lao động đã qua đào tạo, thì một số kĩ 
năng quan trọng của thời đại như công nghệ thông tin, ngoại ngữ đều thiếu và yếu. 
So với nam giới, điều kiện được đào tạo của nữ giới hạn chế hơn rất nhiều, đặc biệt với những 
người đã có gia đình, phụ nữ ở nông thôn, miền núi - khu vực nhiều tiềm năng phát triển du lịch 
sinh thái, văn hóa cộng đồng. Để vượt qua hạn chế đó, phụ nữ cần có quyết tâm xây dựng trên cơ 
sở hiểu rõ tầm quan trọng của kiến thức trong hoạt động nghề nghiệp, hiểu rõ cơ hội phát triển 
bản thân bằng học tập là bình đẳng cho cả hai giới. 
4. Kết luận 
Hiện nay các vấn đề về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phụ nữ trong ngành du lịch ở 
nước ta còn nhiều bất cập: Tỷ lệ cán bộ nữ quản lý, lãnh đạo ở các cấp trong ngành du lịch còn 
thấp, chưa tương xứng với lực lượng và sự đóng góp của phụ nữ; nhận thức của xã hội và của bản 
thân phụ nữ về bình đẳng giới trong ngành du lịch còn nhiều hạn chế... Tuy nhiên, nếu có các 
chính sách và định hướng cụ thể, trong tương lai, người phụ nữ sẽ ngày càng khẳng định được 
vai trò, vị thế của mình không chỉ trong ngành du lịch mà còn đối với cả các ngành khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1] International Labor Organization (ILO), Toolkit to guide poverty alleviation through tourism, Hanoi, 
2012, pp. 20-21. 
[2] T. H. Bui, “Gender equality and some issues on female workers in tourism and service industries,” 
Proceedings of the 6th Women's Scientific Conference, 2001, pp. 305-306. 
[3] T. H. Tran, “Training high-quality tourism human resources for Dong Nai province,” Education 
Magazine, no. 12, pp. 59-64, 2019. 
[4] T. D. L. Tran, “Some solutions to enhance Vietnamese women'positon in society,” TNU Journal of 
Science and Technology, vol. 225, no. 04, pp. 132-139, 2020. 
[5] T. L. Nguyen and T. T. D. Nguyen, “Discussion about employment for female workers in Vietnam 
today,” Financial magazine, no. 2, pp. 12-17, 2019. 
[6] Vietnam National Administration of Tourism, Project “Program to develop capacity for 
environmentally and socially responsible tourism”, Ha Noi, 2015, pp. 206 -207. 
[7] J. Heintz, N. Kabeer, and S. Mahmud, “Cultural norms, economic incentives and women’s labour 
market behaviour: empirical insights from Bangladesh,” Journal of Oxford Development Studies, vol. 
46, no. 2, pp. 266-289, 2018. 
[8] N. P. Nguyen, Gender equality in labor and employment with the integration process in Vietnam: 
Opportunities and challenges. Labor and Social Publishing House, Hanoi, 2006. 
[9] General Statistics Office, Statistical Yearbook, 2019. 
[10] K. Kompa and D. Witkowska, “Factors affecting men’s and women’s earnings in Poland,” Journal of 
Economic research, vol. 31, no. 1, pp. 252-269, 2018. 
[11] Vietnam National Administration of Tourism, Report on Tourism Human Resources Development 
Program, Ha Noi, 2015. 
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 416 - 424 
 424 Email: jst@tnu.edu.vn 
[12] D. L. Ha, T. T. N. Tran, and T. H. Nguyen, Developing female intellectual resources in the context of 
Industry 4.0 in Vietnam. Workshop on Developing a Digital Knowledge Center model for Vietnamese 
Libraries, 2020. 
[13] Central Committee, Politburo Resolution on developing tourism into a spearhead economic sector, Ha 
Noi, 2017. 
[14] United Nations Development Program (UNDP), Social Services for Human Development: Vietnam 
Human Development Report, 2011, pp. 7-8. 
[15] World Tourism Organization (UNWTO), Global report on women in tourism, 2019, pp. 310-311. 
[16] World Bank Group, The future of employment in Vietnam from a gender perspective, 2018, pp. 2-3. 
[17] Vietnam National Administration of Tourism, Vietnam tourism annual report, Ha Noi, 2020. 
[18] United Nations Development Program (UNDP), Women's Participation in Leadership and 
Management in Vietnam, Report of the Cambridge Women's Leadership Program - Vietnam: Building 
Leadership Capacity Educating women in the state sector in the context of international economic 
integration, December 2012. 
[19] Japan International Cooperation Agency (JICA), Practical Handbook for Rural Tourism Development 
in Vietnam, Hanoi, 2013. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_dien_mot_so_dac_diem_cua_lao_dong_nu_trong_hoat_dong_du.pdf