Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm

Che giấu tội phạm luôn là vấn đề được được xã hội quan tâm. Trong đó, ‚nguyên tắc cá thể hóa

trách nhiệm hình sự‛ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong ngành Luật Hình sự Việt Nam

mà nội dung của nó đòi hỏi cơ quan xét xử phải xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của xã hội

với tội phạm, nhân thân của người phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để áp dụng hợp lý và

có chọn lọc những biện pháp phù hợp để thể hiện tính răn đe, nhưng cũng thể hiện sự nhân đạo

của pháp luật.

Trong bài báo, nội dung chính mà chúng tôi đề cập về khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa để người

đọc có được những kiến thức cơ bản nhất về nguyên tắc quan trọng này, đặc biệt là có sự so sánh

nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xét xử độc lập.

Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm trang 1

Trang 1

Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm trang 2

Trang 2

Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm trang 3

Trang 3

Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm trang 4

Trang 4

Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 7740
Bạn đang xem tài liệu "Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm

Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với tội danh che giấu tội phạm
1606 
NGUYÊN TẮC CÁ THỂ HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 
ĐỐI VỚI TỘI DANH CHE GIẤU TỘI PHẠM 
Đỗ Thị Thùy, Bùi Duy Phong, Đinh Minh Uy 
Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh 
GVHD: ThS. Nguyễn Minh Nhựt 
TÓM TẮT 
Che giấu tội phạm luôn là vấn đề được được xã hội quan tâm. Trong đó, ‚nguyên tắc cá thể hóa 
trách nhiệm hình sự‛ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong ngành Luật Hình sự Việt Nam 
mà nội dung của nó đòi hỏi cơ quan xét xử phải xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của xã hội 
với tội phạm, nhân thân của người phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để áp dụng hợp lý và 
có chọn lọc những biện pháp phù hợp để thể hiện tính răn đe, nhưng cũng thể hiện sự nhân đạo 
của pháp luật. 
Trong bài báo, nội dung chính mà chúng tôi đề cập về khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa để người 
đọc có được những kiến thức cơ bản nhất về nguyên tắc quan trọng này, đặc biệt là có sự so sánh 
nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc xét xử độc lập. 
Từ khóa: Che giấu tội phạm, hình sự, nguyên tắc cá thể hóa, pháp luật, xét xử độc lập. 
1 KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC CÁ THỂ HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI 
DANH CHE GIẤU TỘI PHẠM 
Ba nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm là đồng phạm bao gồm: nguyên tắc 
xác định trách nhiệm hình sự chung, nguyên tắc độc lập và nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình 
sự trong che giấu tội phạm. Trong đó, nguyên tắc cá thể hóa là một nguyên tắc quan trọng để Tòa 
án có thể dựa vào nhiều yếu tố của mỗi cá nhân trong che giấu tội phạm để quyết định mức án 
phù hợp với từng bị cáo. Trong Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: Khi quyết định 
hình phạt đối với những người che giấu tội phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của che giấu tội 
phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người che giấu tội phạm. Đây được hiểu là 
quy định theo tinh thần của nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm. 
Khái niệm về nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của người che giấu tội phạm được quy 
định tại Bộ luật hình sự 2015, Sửa đổi, bổ sung 2017: Người nào không hứa hẹn trước nhưng sau khi 
biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vết của tội phạm hoặc có 
hành vi khác cản trở việc phát hiện điều tra, xử lý người phạm tội thì phải chịu trách nhiệm hình sự 
về tội che giấu tội phạm. Tuy nhiên trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia 
hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng theo điều 389 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017. 
Vì vậy, có thể thấy khái niệm về nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự là Nguyên tắc cơ bản 
của luật hình sự Việt Nam mà nội dung của nó là đòi hỏi các cơ quan xét xử phải xem xét tính chất, 
1607 
mức độ nguy hiểm đối với xã hội của tội phạm; nhân thân của người phạm tội, các tình tiết tăng 
nặng và giảm nhẹ để áp dụng hợp lý và có chọn lọc những biện pháp cưỡng chế hình sự và tố 
tụng hình sự đối với người phạm tội. 
2 ĐẶC ĐIỂM CỦA ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÁ THỂ HÓA ĐỐI VỚI TỘI DANH 
CHE GIẤU TỘI PHẠM 
Nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự được thể hiện trong việc áp dụng đường lối xử lý theo 
nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, để giải quyết cho từng trường hợp phạm tội riêng biệt 
trong che giấu tội phạm nhằm tách biệt từng người một để xem xét tính chất và mức độ tham gia 
thực hiện hành vi phạm tội nhằm đưa ra quyết định hình phạt cho phù hợp với thực tiễn áp dụng 
pháp luật dựa trên các đặc điểm của nguyên tắc cá thể hóa. 
2.1 Những người che giấu tội phạm sẽ chịu trách nhiệm chung về tội danh nhưng áp 
dụng hình phạt, mức phạt riêng 
Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự được áp dụng trong che giấu tội phạm đối với những 
người che giấu tội phạm chịu trách nhiệm chung về một tội danh, nhưng mỗi người trong che giấu 
tội phạm sẽ bị áp dụng hình phạt, mức phạt khác nhau tùy thuộc vào tính chất và mức độ tham gia 
của mỗi người trong toàn bộ quá trình thực hiện hành vi che giấu. Nguyên tắc này đòi hỏi việc xác 
định các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải tương xứng với tính chất và 
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phù hợp với những đặc điểm cụ thể về nhân 
thân của người phạm tội. 
Trên thực tế, có rất nhiều vụ án có tính chất che giấu tội phạm, nhưng các tội phạm có ý chí khác 
nhau khi thực hiện hành vi phạm tội. Có những người chủ mưu thực hiện hành vi phạm tội, nhưng 
có những người chỉ tham gia với vai trò ủng hộ, giúp sức, thậm chí còn có những người thực hiện vì 
bị ép buộc. Trong trường hợp này, các hành vi che giấu tội phạm sẽ chịu trách nhiệm hình sự 
chung về tội danh, nhưng không thể cào bằng hình phạt, mức phạt với tất cả hành vi che giấu tội 
phạm. Vì vậy, nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự được áp dụng trong che giấu tội phạm 
nhằm xứng đáng với vai trò, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội trong thực hiện hành vi 
phạm tội, để thể hiện được tính nghiêm minh, công bằng và khoan hồng của pháp luật. Ngoài ra, 
nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong che giấu tội phạm còn phụ thuộc vào nhân thân 
của người phạm tội. Bởi vì việc áp dụng hình phạt, mức phạt riêng còn phụ thuộc vào nhân thân, 
đặc biệt là độ tuổi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Trong vụ án, mặc dù nhiều trường hợp hành 
vi che giấu tội phạm cùng chung tính chất và mức độ phạm tội, tuy nhiên hình phạt và mức phạt 
đối với mỗi người vẫn có sự phân hóa, ngoài việc áp dụng tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, còn phụ 
thuộc lớn vào nhân thân người phạm tội. Đối với người dưới 14 tuổi, người thuộc tình trạng không có 
năng lực trách nhiệm hình sự mặc dù cùng tham gia vào thực hiện hành vi phạm tội, nhưng họ 
không phải chịu trách nhiệm hình sự [2]. 
Đặc điểm này là một trong những điểm khác biệt lớn giữa nguyên tắc xét xử độc lập với nguyên tắc 
cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong che giấu tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án và 
Viện kiểm sát có thể lẫn lộn trong việc áp dụng hai nguyên tắc này dẫn đến việc thay vì quyết định 
1608 
các khung hình phạt khác nhau trong cùng tội danh của che giấu tội phạm, Tòa án hay Viện kiểm 
sát lại xét xử ở các tội danh khác nhau. Điều này dẫn tới việc oan sai, bỏ lọt tội phạm, mức phạt áp 
dụng không xứng đáng với tính chất, mức độ phạm tội của mỗi người trong che giấu tội phạm. 
Tại Bản án số: 38/2019/HS-ST Ngày 13 tháng 09 năm 2018, Cấp xét xử: Sơ thẩm, Toà án xét xử: 
Toà án Nhân dân TP. Hồ Chí Minh. Bị cáo trong vụ án bao gồm Mai Thị T và Mai Văn D. Vụ án 
này, quan điểm của Viện kiểm sát phân hóa đồng phạm trong vụ án thành 03 tội danh: Tội Giết 
người, Tội che giấu tội phạm, Tội Gây rối trật tự công cộng. Trong khi Toà án lại cho rằng chỉ có 02 
tội là Tội Cố ý gây thương tích và Tội che giấu tội phạm, không đồng tình với quan điểm của Viện 
kiểm sát về Tội Gây rối trật tự công cộng. Trường hợp này, người viết có cùng quan điểm luận tội 
với Hội đồng xét xử [1]. 
Mặc dù Hội đồng xét xử đã nhận ra sự sai lầm trong việc áp dụng nguyên tắc cá thể hóa và 
nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập và yêu cầu điều tra bổ sung, tuy nhiên Viện kiểm sát vẫn giữ 
quan điểm truy tố, Hội đồng xét xử không thể đưa ra tội danh cao hơn tội mà Viện đã truy tố, Hội 
đồng xét xử buộc phải đưa ra mức án mà chính Hội đồng xét xử không phục. Vì vậy, sau khi đọc 
Bản tuyên án, Hội đồng xét xử quyết định kháng nghị bản án vừa đưa ra của mình, và vụ án tới nay 
vẫn đang được giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Đây là một ví dụ điển hình về việc Viện kiểm sát 
đã áp dụng không đúng nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự mà bị lẫn lộn sang nguyên tắc 
chịu trách nhiệm độc lập đối với Tội Cố ý gây thương tích và Tội Gây rối trật tự công cộng. 
2.2 Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ được áp dụng cho từng người 
trong che giấu tội phạm 
Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với mỗi người trong che giấu tội phạm cũng là 
một trong những đặc điểm cực kỳ quan trọng của nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong 
che giấu tội phạm. Đặc điểm này phụ thuộc nhiều vào các quy định về tình tiết tăng nặng và giảm 
nhẹ trách nhiệm hình sự trong che giấu tội phạm trong Bộ luật Hình sự. 
Trong đó, các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 
2017. Các tình tiết giảm nhẹ được áp dụng cho mỗi người che giấu tội phạm phụ thuộc vào ý chí 
của mỗi người phạm tội khi thực hiện tội phạm, các hành vi sau khi thực hiện tội phạm nhằm thể 
hiện sự ăn năn hối cải của mỗi người phạm tội trong che giấu tội phạm, yếu tố nhân thân của mỗi 
người. Đây chính là những điểm nhằm phân hóa rõ nhất mức phạt và hình phạt mà mỗi cá nhân 
trong che giấu tội phạm phải chịu. 
Đối với các tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 
2017. Các tình tiết tăng nặng tập trung chủ yếu vào diễn biến các hành vi, ý chí của mỗi cá nhân 
trong che giấu tội phạm thực hiện hành vi phạm tội. 
Trong vụ án hình sự số 29/2018/HS-ST của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử tội Mua 
bán trái phép chất ma túy có yếu tố che giấu tội phạm, bị cáo Đ 5 năm tù vì Tòa án áp dụng điểm a 
Khoản 1 Điều 389, Điểm h, điểm m, điểm s, điểm x, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, 
bổ sung 2017; bị cáo Nguyễn Minh H 15 năm tù vì áp dụng Điểm b, Khoản 4, Điều 251 Bộ luật Hình 
sư 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, Điểm h Khoản 1, Điều 51 BLHS 2015 SĐ, BS 2017 
1609 
Trong vụ án này, Tòa án đã áp dụng chính xác nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong 
che giấu tội phạm với những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khác nhau. Vì vậy, vụ án này sau khi xét 
xử được sự đồng thuận của các bên liên quan và không có kháng cáo, kháng nghị [2]. 
3 Ý NGHĨA CỦA VIỆC ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÁ THỂ HÓA TRONG TRUY 
CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CHE GIẤU TỘI PHẠM 
Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trách 
nhiệm hình sự trong che giấu tội phạm, xác định chính xác mức độ hành vi của mỗi người trong 
che giấu tội phạm. 
Thứ nhất, việc áp dụng nguyên tắc cá thể hóa vào những vụ án có tính chất che giấu tội phạm 
mang lại rất nhiều ý nghĩa và giá trị thực tiễn trong công tác điều tra, truy tố và xét xử. Đối với mỗi 
người che giấu tội phạm khác nhau, nguyên tắc cá thể hóa được áp dụng một cách triệt để nhằm 
thể hiện đúng vai trò của mỗi người trong che giấu tội phạm. Từ đó Tòa án có thể đưa ra mức phạt 
hợp tình, hợp lý vừa thể hiện tính nghiêm minh và đề cao sự khoan hồng. [3] 
Thứ hai, đối với mỗi loại người che giấu tội phạm, nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự góp 
phần phân hóa tốt nhất hình phạt, mức phạt đối với các loại người che giấu tội phạm trong cùng 
một vụ án. Trong che giấu tội phạm, việc áp dụng nguyên tắc cá thể hóa đối với người thực hành 
được áp dụng dễ dàng hơn. Thông thường, đối với người thực hành, các chứng cứ, người làm 
chứng, diễn biến thực hiện hành vi phạm tội, ý chí của người phạm tội được thể hiện khá rõ ràng, vì 
vậy áp dụng nguyên tắc cá thể hóa trong việc áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Đối với người 
tổ chức trong vụ án che giấu tội phạm, áp dụng nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự từ khâu 
điều tra, truy tố và xét xử sẽ có được những thông tin đúng về vị trí vai trò của loại người này, đánh 
giá đúng đắn tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội [3]. 
Thứ ba, người che giấu tội phạm trong các vụ án hình sự mặc dù có thể không trực tiếp thực hiện 
hành vi phạm tội, nhưng họ luôn là những thành phần nguy hiểm cho xã hội bởi vì chính hành vi đó 
gây khó khăn tỏng việc điều tra của cơ quan nhà nước, thực hiện tội phạm và có thể liên quan đến 
các nhóm, băng đảng tội phạm hoạt động có tổ chức. Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự 
đối với người che giấu tội phạm được áp dụng không chỉ đơn thuần dựa vào hành vi, hậu quả của 
tội phạm, mà còn phải đánh giá được mức độ ảnh hưởng của người tổ chức đến xã hội. Vì vậy mặc 
dù người che giấu tội phạm không có nhiều tình tiết tăng nặng, thậm chí có rất nhiều tình tiết giảm 
nhẹ và không có nhiều chứng cứ trực tiếp, nhưng người che giấu tội phạm luôn được ‚quan tâm 
đặc biệt‛ với mức án phải bảo đảm phù hợp với hậu quả về mặt xã hội mà người tổ chức đã gây 
ra, đồng thời chế tài áp dụng phải đủ mạnh để vừa làm gương, vừa mang tính răn đe [3]. 
Đặc biệt, nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự giúp cho việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng 
với những người che giấu tội phạm, hạn chế tối đa việc xảy ra án oan, sai. Nguyên tắc này còn thể 
hiện sự khoan hồng của pháp luật, hạn chế những tranh cãi về mức phạt bị áp dụng của người 
phạm tội, từ đó hạn chế được những vụ án kéo dài ra thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái 
thẩm. Từ đó góp phần củng cố, hạn chế những bất cập trong việc thực thi pháp luật ở nước ta, vừa 
mang lại những giá trị giáo dục, tuyên truyền nâng cao ý thức pháp luật về pháp luật hình sự nói 
1610 
riêng và pháp luật Việt Nam nói chung trong xử lý, đấu tranh phòng, chống tội phạm, hạn chế tối 
đa tội phạm hình sự [3]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Congbobanan.toaan.gov.vn; 
[2] Đinh Văn Quế, 2017, Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 phần thứ nhất những quy định 
chung, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội. 
[3] TS. Trần Thị Quang Vinh, ThS. Vũ Thị Thúy, 2011, Tập bài giảng Luật Hình sự Việt Nam, NXB Đại 
học Quốc Gia TP.HCM, Thành phố Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdfnguyen_tac_ca_the_hoa_trach_nhiem_hinh_su_doi_voi_toi_danh_c.pdf