Ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình của người chăm ở thành phố Hồ Chí Minh
Bài viết đề cập đến giao tiếp trong phạm vi
gia đình của người Chăm tại TPHCM trong
bối cảnh cuộc sống đô thị hóa đang diễn ra
mạnh mẽ tạo điều kiện cho sự giao thoa
tiếp xúc ngôn ngữ. Trạng thái song ngữ
tiếng Việt-tiếng Chăm được coi là trạng
thái chủ đạo, trong đó tiếng Chăm chiếm ưu
thế trong đời sống cộng đồng của người
Chăm. Bằng các số liệu khảo sát định
lượng và định tính tại phường 17, quận Phú
Nhuận, TPHCM trong năm 2012, bài viết
giúp chúng ta nhận diện được các nhân tố
ảnh hưởng đến ngôn ngữ trong giao tiếp
của người Chăm thông qua các tiêu chí:
giới tính, tuổi tác, học vấn và nghề nghiệp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình của người chăm ở thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình của người chăm ở thành phố Hồ Chí Minh
t sẽ giúp chúng ta nhận diện học những nhân tố đã làm nên sự khác nhau Tại TPHCM, nhóm đề tài lựa chọn quận trong giao tiếp gia đình của người Chăm ở Phú Nhuận làm địa bàn nghiên cứu (cụ thể TPHCM. 40 TRẦN PHƯƠNG NGUYÊN – NGÔN NGỮ TRONG GIAO TIẾP Xét về giới tính, khi giao tiếp với bố mẹ và 19-30 sử dụng ở mức 93,9% (51,5% và cô dì chú bác, nam giới sử dụng tiếng 42,4%); nhóm tuổi từ 31-60 là 97,7% Chăm thấp hơn nữ giới nhưng không đáng (53,5% và 44,2%). kể (với bố mẹ: 92,5%; 86,8%); (với cô dì, Trong 3 nhóm tuổi kể trên thì nhóm tuổi từ chú bác: 93,7%; 93%). Số người nam sử 31-60 nói tiếng Chăm nhiều nhất, nói ít dụng song ngữ (Chăm-Việt) để giao tiếp hơn rơi vào nhóm tuổi 13-18 và ở nhóm cao hơn nữ (nam: 7,5%; nữ: 4,7%). Khi này tỉ lệ dùng song ngữ Chăm-Việt cũng giao tiếp với con cái, nam giới cũng ít sử cao hơn hẳn các nhóm còn lại (12,5% so dụng tiếng Chăm hơn là nữ, mức độ chênh với 6,1% và 4,1%). lệch là 3,5%. Trong khi đó, mức độ sử Số liệu nói trên cho thấy có sự khác nhau dụng hoàn toàn bằng tiếng Chăm của nữ trong việc lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp giới cũng cao hơn nam giới (45,3% so với giữa các thế hệ trong gia đình. Đa số đều 30,2%). Xét trong toàn bộ mối quan hệ gia sử dụng tiếng Chăm trong giao tiếp đình thì tỉ lệ nói tiếng Chăm của nữ nhiều nhưng tỉ lệ nói tiếng Chăm nhiều nhất là hơn nam giới nhưng không đáng kể: (nam: lứa tuổi trung niên trở lên. Điều này cho 76%; nữ: 73,6%). Mức độ sử dụng song thấy những người lớn tuổi có xu hướng ngữ của nữ cũng nhiều hơn nam: 11,3% lưu giữ các giá trị truyền thống. Trong khi so với 1,6%. đó các thành viên ở độ tuổi thiếu niên và Số liệu khảo sát trên cho thấy, người thanh niên có xu hướng sử dụng tiếng Chăm khi giao tiếp với người thân ở các Việt nhiều hơn và trạng thái song ngữ thế hệ (ông bà, bố mẹ, cô dì, chú bác, con Chăm-Việt được sử dụng cao nhất so với cái) đa số dùng tiếng Chăm để giao tiếp. các nhóm tuổi khác. Có thể do nhóm tuổi Tình trạng sử dụng phần lớn tiếng Việt và này chịu ảnh hưởng của giáo dục nhiều hoàn toàn tiếng Việt trong giao tiếp với hơn, tính cách năng động hơn, dễ tiếp thu người thân là không có, trạng thái đa ngữ các yếu tố mới trong môi trường giao tiếp ít, nữ dùng tiếng Chăm để giao tiếp với xung quanh với tuyệt đại đa số là người người thân nhiều hơn nam. Điều này cho Việt. thấy trong gia đình người Chăm, người mẹ Xét về nghề nghiệp, người Chăm ở có vị trí quan trọng. Mặc dù hiện nay người TPHCM làm nhiều nghề để mưu sinh Chăm ở TPHCM theo chế độ phụ hệ nhưng nhiều nhất là nhóm buôn bán dịch nhưng tàn dư của chế độ mẫu hệ vẫn còn vụ. So với một số dân tộc ít người cùng (3) có ảnh hưởng nhất định . sinh sống trong địa bàn ở TPHCM thì Xét về lứa tuổi, ở độ tuổi càng cao thì tỉ lệ người Chăm dù làm bất cứ nghề nghiệp sử dụng tiếng Chăm để giao tiếp với người nào khi giao tiếp với người thân trong gia thân trong gia đình càng cao. Trong số đình cũng đều dùng tiếng Chăm. Tỉ lệ tuy mẫu được hỏi thì ở nhóm tuổi từ 13-18, không giống nhau nhưng cũng không tạo việc sử dụng hoàn toàn tiếng Chăm và nên sự cách biệt quá lớn. phần lớn tiếng Chăm trong giao tiếp với Trong các nhóm nghề, nhóm buôn bán ông bà là 75% (50% và 25%); nhóm tuổi từ dịch vụ có tỉ lệ sử dụng tiếng Chăm cao TRẦN PHƯƠNG NGUYÊN – NGÔN NGỮ TRONG GIAO TIẾP 41 nhất trong tất cả các quan hệ giao tiếp nhất là nhóm học đại học (79%) và cao (với ông bà bố mẹ, cô dì chú bác, anh chị nhất là nhóm học sinh tiểu học và cấp 2: em, vợ chồng và con cái, lần lượt là (100%). 96,1%; 94,7%; 85,5%; 77,6%). Nhóm sử Trong giao tiếp vợ chồng, nhóm có trình độ dụng tiếng Chăm ít hơn là nhóm học sinh học vấn cấp 3 sử dụng song ngữ nhiều sinh viên (dao động từ 87-93%) và cũng nhất trong các nhóm (9,1%) cũng như sử là nhóm sử dụng song ngữ Chăm-Việt dụng tiếng Việt nhiều nhất trong giao tiếp nhiều hơn các nhóm khác trong giao tiếp (6,8%). với ông bà bố mẹ (12,5%). Có thể do Tiếng Chăm là ngôn ngữ dùng để giao nhóm buôn bán dịch vụ có giao tiếp xã hội tiếp trong gia đình của người Chăm ở nhiều, do họ thường xuyên tiếp xúc bên TPHCM. Dù ở trình độ nào thì người ngoài xã hội nên họ luôn lựa chọn ngôn Chăm cũng có thể dùng tiếng Chăm để ngữ sử dụng phù hợp với các đối tượng, giao tiếp với những người thân của mình. hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Nhóm học Trong các mối quan hệ gia đình thì với sinh-sinh viên do tiếp cận với giáo dục ông bà, cha mẹ và anh chị em ruột, tiếng (tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, ngôn Chăm được sử dụng nhiều nhất. Trong ngữ sử dụng bắt buộc trong các hệ thống giáo dục quốc dân) nên nhóm này sử mối quan hệ vợ chồng, tỉ lệ sử dụng tiếng dụng cả tiếng Việt và tiếng Chăm để giao Chăm có giảm. Trong xu hướng phát triển tiếp trong gia đình. hiện nay, kiểu gia đình hạt nhân trở nên phổ biến. Các cặp vợ chồng trẻ tách ra ở Xét về trình độ học vấn, khi giao tiếp với riêng, do tiếp xúc với bạn bè và các ông bà, các nhóm ở mọi trình độ học vấn phương tiện nghe nhìn nhiều nên họ giao đều có tỉ lệ sử dụng tiếng Chăm cao, dao tiếp với nhau bằng tiếng Việt nhiều hơn. động từ 91,17% đến 100%. Ngoài xu Nhìn ở góc độ học vấn, thì nhóm người hướng trân trọng các giá trị truyền thống có trình độ tiểu học nói tiếng Chăm nhiều không loại trừ khả năng sử dụng tiếng nhất và giảm dần ở những người có trình Việt của ông bà không tốt bằng những độ cao hơn. nhóm còn lại nên hầu như họ chỉ sử dụng tiếng Chăm. 3.3.2. Giao tiếp với khách Trong giao tiếp với bố mẹ, các nhóm sử Khi giao tiếp với người quen cùng dân tộc, dụng tiếng Chăm cũng rất cao từ 93 % đến người Chăm ở TPHCM thường dùng tiếng 100%. Bên cạnh đó thì nhóm có trình độ Chăm để giao tiếp.. cấp 3 và đại học có tỉ lệ sử dụng song ngữ Đối với khách lạ dù là người dân tộc nào, cao hơn so với các nhóm khác: 11,4% và người Chăm thường sử dụng tiếng Việt để 12,5%. Ngôn ngữ mẹ đẻ là sợi dây gắn kết giao tiếp. Nếu khách là người Khmer, tình cảm, tạo sự gắn bó yêu thương nhiều người Chăm có thể nói tiếng Khmer nhưng hơn trong gia đình. trường hợp này không nhiều. Giao tiếp với anh chị em của nhóm chưa đi Trong những phỏng vấn người Chăm ở học trong gia đình thì tiếng Chăm vẫn giữ TPHCM, khi được hỏi “Có khách tới nhà vai trò chủ đạo. Sử dụng tiếng Chăm thấp ông bà thường sử dụng tiếng Việt hay 42 TRẦN PHƯƠNG NGUYÊN – NGÔN NGỮ TRONG GIAO TIẾP tiếng Chăm để giao tiếp?” thì được trả lời: tiếng Việt trong giao tiếp khá cao: 27,9% “Nếu là người Chăm thì dĩ nhiên mình nói so với hai nhóm còn lại (19-30: 13,6%; 13- tiếng Chăm à còn thì nói tiếng Việt”(4). Kết 39: 25%). Điều này có thể lý giải, lứa tuổi quả khảo sát cho thấy đối với những người 19-30 là lứa tuổi năng động, nhanh nhạy khách không phải là người Chăm thì người với những thay đổi của môi trường xung Chăm không sử dụng tiếng Chăm để giao quanh nên có cách ứng xử linh hoạt. Còn tiếp, trừ khi người khách biết tiếng Chăm những người ở nhóm tuổi từ 31-60 thì xu và chủ động nói tiếng Chăm trước. Nhưng hướng sử dụng tiếng Việt nhiều hơn. Có lẽ trường hợp này ít xảy ra. Trường hợp đây là nhóm tuổi có nhiều trải nghiệm trong dùng cả tiếng Việt và tiếng Chăm trong cuộc sống, tiếp xúc bên ngoài cộng đồng giao tiếp chiếm tỉ lệ cao nhất và nghiêng về nhiều hơn nên khả năng tiếng Việt tốt hơn nam giới (nam: 66%; nữ: 60,9%). Số và sử dụng nhiều hơn. người nói hoàn toàn bằng tiếng Việt đối Xét theo tiêu chí học vấn, người Chăm dù với nam là 22,6% và với nữ là 17,2%. ở trình độ nào khi gặp khách là người khác Điều này có thể lý giải nam giới thường ra dân tộc đều dùng tiếng Việt để giao tiếp ngoài nhiều hơn, tham gia các công việc như đã nói ở phần trên. Cho dù không đi ngoài xã hội nhiều hơn, còn nữ giới chủ học, nhưng nhóm người này vẫn sử dụng yếu giao tiếp trong nội bộ cộng đồng. Điều tiếng Việt tương đối tốt. Khả năng song này một phần do sự phân công lao động ngữ Chăm-Việt của họ so với các nhóm trong gia đình, nam giới thường đảm nhận khác thấp hơn không nhiều (66,7% so với các công việc bên ngoài, còn nữ giới chủ 75%). Tỉ lệ nói phần lớn tiếng Việt và hoàn yếu đảm nhận công việc nội trợ. Sự khác toàn tiếng Việt là 25%. Đối với nhóm có nhau về điều kiện tiếp xúc dẫn đến việc sử trình độ tiểu học thì khi giao tiếp với khách dụng tiếng Việt khác nhau. lạ họ dùng 100% tiếng Việt để giao tiếp. Xét theo tiêu chí nhóm tuổi, nhóm từ 13-18 Có thể lý giải những người lớn tuổi này tuy tuổi sử dụng song ngữ để giao tiếp với không đi học nhưng họ có sự trải nghiệm khách lạ là 62,5%; ngoài ra tỉ lệ sử dụng bên ngoài cộng đồng nhiều nên khả năng tiếng Việt và phần lớn tiếng Việt trong giao tiếp linh hoạt. giao tiếp với khách lạ khá cao (37%). Đây Đối với nhóm người học cấp 2 và cấp 3 thì là độ tuổi đến trường, thường xuyên tiếp tỉ lệ giao tiếp sử dụng song ngữ Việt- xúc với thầy, cô, bạn bè là người Việt nên Chăm tương đương các nhóm khác khả năng sử dụng tiếng Việt tốt là điều dễ (61,9%; 63,6%). Nhưng tỉ lệ sử dụng hoàn hiểu. tiếng Việt để giao tiếp với khách lạ cao Trong ba nhóm tuổi thuộc mẫu khảo sát thì nhất trong các nhóm (21,4%). nhóm từ 19-30 sử dụng song ngữ Việt- Nhóm người có trình độ đại học phần lớn Chăm chiếm tỉ lệ cao nhất: 71,2%. Nhóm sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp với tuổi 13-18: 62,5%; nhóm ít sử dụng song khách. Trong mẫu trả lời tỉ lệ lựa chọn là ngữ nhất là nhóm 31-60 (51,2%), nhưng 100% (hoàn toàn tiếng Việt: 75%; phần lớn nhóm này lại là nhóm sử dùng hoàn toàn tiếng Việt: 12,5%; song ngữ: 12,5%). TRẦN PHƯƠNG NGUYÊN – NGÔN NGỮ TRONG GIAO TIẾP 43 Như vậy, người Chăm ở TPHCM sử dụng có chung đặc điểm là không sử dụng tiếng khá tốt cả tiếng Việt và tiếng Chăm. Tình Chăm khi giao tiếp với khách lạ. trạng sử dụng song ngữ Chăm-Việt để 4. KẾT LUẬN giao tiếp với khách khá đồng đều (dao Trong đời sống xã hội, người Chăm động trong khoảng từ 61,9%-75%). Trừ TPHCM sử dụng ngôn ngữ ở trạng thái những người đi chưa đi học và học vấn song ngữ: Việt-Chăm; Việt-Khmer; Việt- cấp 1 sử dụng tiếng Việt tốt như đã lý giải Chăm-Melayu; Việt-Hoa; trong đó song ở trên, còn lại mức độ giao tiếp bằng tiếng ngữ Chăm-Việt là trạng thái chủ đạo và Việt tăng theo trình độ học vấn. bền vững trong đời sống cộng đồng. Đây Xét theo tiêu chí nhóm nghề, trong số 4 là đặc điểm nổi bật của cảnh huống ngôn nhóm nghề thì nhóm học sinh sinh viên- ngữ vùng người Chăm TPHCM. công nhân viên sử dụng song ngữ để giao Đa số người Chăm TPHCM đều sử dụng tiếp với khách nhiều nhất, nhóm này cũng tốt tiếng Chăm trong giao tiếp, không có sử dụng tiếng Việt để giao tiếp với khách trường hợp nào không biết tiếng mẹ đẻ. cao hơn những nhóm còn lại. Đây là nhóm Đó là ngôn ngữ sử dụng trong gia đình. có trình độ học vấn cao, có một khoảng Người Chăm ở TPHCM sử dụng tốt tiếng thời gian dài thường xuyên sử dụng tiếng Chăm trong gia đình bên cạnh việc sử Việt trong học tập. Đối với công nhân viên dụng tốt tiếng Việt ở bên ngoài cộng đồng. thì họ làm việc trong môi trường hầu hết là Xét về giới tính, nữ giới thường sử dụng người Việt nên sử dụng tiếng Việt cao là tiếng Chăm tốt hơn. Về tuổi tác, những điều dễ hiểu. người ở nhóm tuổi từ 31-60 sử dụng tiếng Những người làm công việc nội trợ sử Chăm cao nhất so với các nhóm còn lại. dụng chủ yếu tiếng Việt trong giao tiếp với Xét về tiêu chí nghề nghiệp, nhóm buôn khách là 33%; sử dụng song ngữ Chăm- bán dịch vụ là nhóm sử dụng tốt nhất hai Việt là 50%; hoàn toàn Việt là 11,1%. Đây ngôn ngữ Chăm-Việt vì thường xuyên có là nhóm ít sử dụng tiếng Việt nhất so với quan hệ buôn bán cả ngoài và trong cộng hai nhóm còn lại vì môi trường giao tiếp đồng. Dựa trên tiêu chí học vấn cho thấy chủ yếu trong gia đình và cộng đồng. nhóm người Chăm có học vấn cao có khả Những người trong nhóm buôn bán dịch năng giao tiếp tiếng Việt nhiều hơn. vụ sử dụng chủ yếu tiếng Việt trong giao Ở môi trường có tính chất đặc thù như gia tiếp với khách là 5,3%; hoàn toàn sử dụng đình thì tiếng mẹ đẻ chiếm ưu thế. Còn tiếng Việt là 17,1%; sử dụng song ngữ trong một số trường hợp nhất định như ở Chăm-Việt là 63,2%; Đây là nhóm không những nơi công cộng, trong sáng tác văn có học vấn cao như nhóm học sinh sinh học nghệ thuật người Chăm linh hoạt viên-công nhân viên nhưng do công việc trong sử dụng ngôn ngữ. Tùy theo điều buôn bán thường xuyên tiếp xúc với người kiện cụ thể, họ dùng cả tiếng Việt lẫn tiếng ngoài cộng đồng nên họ sử dụng cả tiếng Chăm. Trong một số trường hợp đôi khi họ Việt và tiếng Chăm tương đối tốt. Những còn sử dụng cả tiếng Khmer hay tiếng người thuộc nhóm nghề khác nhau cũng Melayu. 44 TRẦN PHƯƠNG NGUYÊN – NGÔN NGỮ TRONG GIAO TIẾP Hiện tượng trộn mã (một số yếu tố từ vựng TÀI LIỆU THAM KHẢO tiếng Việt, Khmer, Melayu trong sử dụng 1. Austin, John. 1975. How to Do Thing With tiếng Chăm), chuyển mã đang diễn ra và Words. J.O. Urmson and M. Sbisa (eds), ngày càng trở lên phổ biến. Sự pha trộn Cambridge: Harvard University Press. này phản ánh sự biến chuyển của đời 2. Baker, Colin. 2008. Những cơ sở của giáo sống xã hội, trong đó giao tiếp văn hóa dục song ngữ và vấn đề song ngữ. TPHCM: giữa các cộng đồng dân cư (chủ yếu là Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. người Việt) ngày càng tăng. Đối với cộng 3. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý. 2009. Gia đồng người Chăm thì vị trí sau tiếng Việt là đình học. Hà Nội: Nxb. Chính trị-Hành chính. tiếng Chăm. Tính chất song ngữ không thể 4. Lương Văn Hy. 2000. Ngôn từ giới và hiện đều khắp ở các phạm vi và các đối nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt. Hà Nội: tượng giao tiếp. Sự phân bố chức năng Nxb. Khoa học Xã hội. trong sử dụng ngôn ngữ (Việt-Chăm) 5. Nguyễn Văn Khang. 2009. Khảo sát, không đồng đều. Điều này bị chi phối bởi nghiên cứu vai trò của tiếng nói chữ viết các đặc điểm nhân khẩu, xã hội. Chăm trong đời sống xã hội của người Chăm hiện nay, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ do Viện CHÚ THÍCH Ngôn ngữ học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã (1) hội Việt Nam) chủ trì. Xem thêm Trần Phương Nguyên, 2013, Sự phân biệt giới tính trong cách đặt tên của người 6. Nguyễn Văn Khang. 2012. Ngôn ngữ học Chăm ở Nam Bộ. Tạp chí Dân tộc học, tr. 75. xã hội. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam. Và Nguyễn Văn Luận, 1974, Người Chăm Hồi 7. Nguyễn Văn Luận. 1974. Người Chăm Hồi giáo miền Tây Nam Phần Việt Nam, tr. 75-81. giáo miền Tây Nam Phần Việt Nam. Sài Gòn: (2) Số liệu điền dã 2012. Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên xuất (3) Đại bộ phận người Chăm Islam ở Nam Bộ bản. trong đó có TPHCM có nguồn gốc ở tỉnh Ninh 8. Vũ Dũng chủ biên. 2008. Từ điển tâm lý Thuận và Bình Thuận, trải qua những biến học. Hà Nội: Nxb. Từ Điển Bách Khoa. thiên của lịch sử đã đưa đẩy họ đến vùng đất 9. Vương Xuân Tình. 2010. Biến đổi văn hóa Nam Bộ các tộc người vùng Đông Bắc từ góc nhìn sử (4) M. K. phường 17, quận Phú Nhuận, TPHCM. dụng ngôn ngữ, Tạp chí Dân tộc học, số 5.
File đính kèm:
- ngon_ngu_trong_giao_tiep_gia_dinh_cua_nguoi_cham_o_thanh_pho.pdf