Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số rất ít người ở Việt Nam trước nguy cơ ngày càng mai một - Thực trạng và giải pháp
Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích những dấu
hiệu mai một ngôn ngữ: Trạng thái và phạm vi
giao tiếp, chữ viết và sự hình thành - phát triển ngôn ngữ
văn học, giáo dục ngôn ngữ, những mức độ sinh tồn ở các
ngôn ngữ Việt Nam hiện nay, những nghiên cứu ngôn ngữ
học. Đồng thời, đưa ra một số nội dung cần trao đổi về thực
trạng ngôn ngữ các dân tộc thiểu số rất ít người như: Nguy
cơ mai một có đe dọa các ngôn ngữ hay không, những nhân
tố ảnh hưởng sinh tồn của các ngôn ngữ, bảo tồn và phát
triển ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số rất ít người để làm
gì, các biện pháp bảo tồn và phát triển các ngôn ngữ ở Việt
Nam là gì? Trong đó, nhân tố quan trọng nhất đem lại sức
sống cho các ngôn ngữ, là được truyền dạy và được sử dụng
trong đời sống xã hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số rất ít người ở Việt Nam trước nguy cơ ngày càng mai một - Thực trạng và giải pháp
Nùng” người nói, cho đến nay chưa được nghiên cứu đầy (1984), “Từ điển Thái - Việt” (1990), “Từ điển Việt đủ, sâu sắc và kém hơn nhiều so với các ngôn ngữ - Ê-đê” (1993), “Từ điển Việt - Mông” (Việt - Mông có đông người nói. Tư liệu về một số ngôn ngữ đã - 1996), “Từ vựng các phương ngữ Ê-đê” (1998), thu thập, nhưng mới dừng lại ở những hiểu biết ban “Từ điển Cơ-tu - Việt”, “Việt - Cơ-tu” (2007), “Từ đầu, chung chung. Danh sách các dân tộc thiểu số điển Ê-đê - Việt” (2015),... Ngoài ra, còn có hàng rất ít người ở Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam hiện trăm công trình nghiên cứu về ngôn ngữ dân tộc nay còn mang tính ước định (có vẻ là một sự ước thiểu số ở Việt Nam được công bố trên các tạp chí định tạm thời: “Dân tộc thiểu số rất ít người” là dân chuyên ngành trong nước và quốc tế. tộc có số dân dưới 10.000 người). Vì vậy, chúng Ngoài ra, chúng ta còn có không ít những sách ta chưa có đủ căn cứ để xác định thế nào là “ngôn dạy-học tiếng dân tộc thiểu số đã được xuất bản ngữ rất ít người nói” (Chú ý: số người nói một ngôn như “Sách học tiếng Pakôh – Taôih” (1986), “Sách ngữ có thể không trùng với dân số của một dân tộc). học tiếng Bru - Vân Kiều” (1986), “Sách học tiếng Đặc biệt, những nghiên cứu về ngôn ngữ học xã hội Ê-đê” (1988), “Pơrap Kơtu” (Tiếng Cơ-tu - 2006), chưa chỉ ra được thực trạng mai một của các ngôn “Bôq chù Hrê Bình Đình” (Bộ chữ Hrê Bình Định - ngữ và hướng thoát ra khỏi tình trạng này. Hiện nay, 2008), “Xroi Kool -Tiếng Cor” (2014)... ở Việt Nam chưa có một hệ thống tiêu chí nhận diện Từ những năm 90 của thế kỷ XX, trong khuôn và phân loại tình trạng ngôn ngữ mai một. khổ hợp tác Việt - Xô (từ 1979, sau này là Việt - 5. Thảo luận Nga), chương trình Hợp tác Việt-Xô (sau này là 5.1. Nguy cơ mai một đe dọa ngôn ngữ các dân Việt - Nga) khảo sát điền dã ngôn ngữ DTTS Việt tộc thiểu số rất ít người ở Việt Nam Nam đã điều tra nhiều ngôn ngữ làm cơ sở biên soạn Một số tác giả đưa ra nhận xét chung: Ở thời nhiều công trình dưới dạng tư liệu điền dã gồm: hiện đại, cứ một thế kỉ thì 50% số ngôn ngữ đang “Tiếng La Ha” (1986); “Tiếng Mường” (1987); có sẽ bị mất. Hoặc con số: Do tác động của toàn cầu “Tiếng Kxinhmul” (1990), “Tiếng Pu Péo” (1992), hóa, trong thế kỉ 21, khoảng 90% số ngôn ngữ trên Volume 10, Issue 1 113 VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN thế giới sẽ chỉ còn trong kí ức của nhân loại. triển sự đa dạng văn hóa trong quốc gia đa dân tộc Trạng thái và lời cảnh báo trên không loại trừ Việt Nam, qua việc bảo tồn và phát triển những nét đối với thực tế ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc thiểu Nam: Nguy cơ mai một hiện nay đang đe dọa phần số, trong đó có tiếng mẹ đẻ của dân tộc này. lớn các ngôn ngữ ở Việt Nam, trong đó đặc biệt là Thực tế, thì ngôn ngữ không chỉ là một thành các dân tộc thiểu số rất ít người. Các dân tộc này tố cơ bản của văn hoá, mà còn là phương tiện để thường là những cộng đồng đang phải đối diện với hình thành, lưu truyền các hình thái văn hóa khác, những khó khăn đủ loại và nặng nề hơn so với các hệ thống tri thức bản địa quan trọng nhất trong đời dân tộc khác. Một trong những khó khăn đó là đang sống văn hoá tinh thần của một dân tộc. Điều đó mất đi những nét văn hóa truyền thống làm nên bản cũng góp phần bảo tồn và phát triển sự đa dạng tính tộc người, trong đó có ngôn ngữ. trong văn hóa Việt Nam, là một biểu hiện của những Các dân tộc thiểu số rất ít người đứng trước giá trị nhân văn. nguy cơ mai một lớn hơn rất nhiều so với các dân Ngôn ngữ cũng là yếu tố liên kết các thành viên tộc khác. của tộc người. 5.2. Sự sinh tồn của các ngôn ngữ ở Việt Nam Hiện nay ở Việt Nam, ngôn ngữ là một trong chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào? những tiêu chí quan trọng để phân biệt dân tộc này Theo những nghiên cứu của tổ chức UNESCO, với dân tộc khác gồm các tiêu chí sau: Thống nhất một ngôn ngữ có nguy cơ mai một là do: chung về văn hoá vật chất và tinh thần; Thống nhất chung về ngôn ngữ; Thống nhất chung về ý thức tộc Thứ nhất, tác nhân bên ngoài. Một ngôn ngữ sẽ người và tên gọi (tộc danh). bị mai một đi nếu số lượng những người nói ngôn ngữ đó bị suy giảm hoặc không còn nữa. Thiên tai, 5.4. Cần có biện pháp gì để bảo tồn và phát nạn đói và chiến tranh có thể là những nguyên nhân triển ngôn ngữ các dân tộc thiểu số rất ít người ở gián tiếp dẫn tới sự mai một của ngôn ngữ. Việt Nam? Theo lẽ tự nhiên, các ngôn ngữ có số lượng 5.4.1. Chính sách ngôn ngữ của Nhà nước Việt người nói ít, phân tán, không có nhiều độ tuổi sử Nam dụng..., rất cần báo động về sự sinh tồn của chúng. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Thứ hai, tác nhân văn hóa. Một ngôn ngữ sẽ bị Nam năm 2013, Điều 5 khẳng định “Ngôn ngữ mai một đi nếu người nói ít sử dụng hoặc thậm chí quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng không sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình, thay vào đó tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát là sử dụng những ngôn ngữ có vị thế cao hơn, khiến huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tiếng mẹ đẻ của họ bị thu hẹp phạm vi hành chức tốt đẹp của mình”. hoặc không được sử dụng. Quyết định số 53/CP ngày 22/8/1980 của Chính Trong số những nhân tố đã gặp ở hầu hết các phủ về chính sách đối với ngôn ngữ và chữ viết dân quốc gia đa dân tộc trên thế giới và ở cả Việt Nam, tộc thiểu số ở Việt Nam khẳng định “Tiếng Việt có những nhân tố khách quan và chủ quan: dân số và chữ phổ thông là ngôn ngữ chung của cộng đồng học; văn hóa - ngôn ngữ; tâm lý xã hội; chữ viết và dân tộc Việt Nam (). Vì vậy, mọi công dân Việt ngôn ngữ thành văn; chính sách của Nhà nước... Nam đều có nghĩa vụ và quyền lợi học tập và sử dụng tiếng phổ thông. Tiếng nói và chữ viết của mỗi Nhìn chung, về mặt dân số học có thể thấy điều dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa là vốn quý của kiện sinh tồn và phát triển của các ngôn ngữ ở Việt các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hoá chung của cả Nam không như nhau, nhưng nhìn chung là rất bất nước. Ở vùng dân tộc thiểu số, tiếng nói và chữ viết lợi cho ngôn ngữ các dân tộc thiểu số rất ít người. dân tộc thiểu số được dùng đồng thời với tiếng và Theo lẽ tự nhiên, một ngôn ngữ ít được truyền dạy chữ phổ thông”. và ít được sử dụng trong đời sống cộng đồng, thì sức sống rất hạn chế. Như một nghịch lý: Ngôn ngữ Một số luận điểm chính trong chính sách ngôn có số người nói ít - tức là có nguy cơ mai một lớn, ngữ của Nhà nước Việt Nam gồm: thì lại rất ít được sử dụng và truyền dạy và càng dễ - Thừa nhận và đảm bảo về mặt pháp lý quyền dàng bị tiêu vong hoàn toàn. Trạng thái đó hiện nay có ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) riêng của tất cả đang thuộc các dân tộc thiểu số rất ít người. các dân tộc ở Việt Nam; quyền bình đẳng giữa các 5.3. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các ngôn ngữ, quyền bảo tồn và phát triển tiếng nói chữ dân tộc thiểu số rất ít người để làm gì? viết riêng của các dân tộc thiểu số. Trước hết, điều đó góp phần bảo tồn và phát - Tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số 114 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN được tôn trọng, được sử dụng trong các lĩnh vực Ba là, cải tiến và xây dựng các hệ thống chữ khác nhau của đời sống xã hội. viết; biên soạn các sách công cụ (sách giáo khoa, - Khuyến khích các dân tộc thiểu số học tiếng sách ngữ pháp, từ điển...); sưu tập các văn bản (vốn Việt, đưa tiếng Việt thực sự trở thành ngôn ngữ giao văn nghệ truyền thống; sáng tác mới...) và ghi bằng tiếp chung giữa các dân tộc, là phương tiện để đoàn các ngôn ngữ có nguy cơ mai một. kết, củng cố khối thống nhất các dân tộc trong quốc Bốn là, dạy và học các ngôn ngữ có nguy cơ mai gia đa dân tộc Việt Nam. một và sử dụng chúng trên các phương tiện thông Chính sách nói trên của Nhà nước Việt Nam tin đại chúng. hoàn toàn phù hợp với tinh thần và những cố Năm là, ứng dụng công nghệ thông tin để thu gắng của cộng đồng quốc tế. Ngày tiếng mẹ đẻ thập, lưu trữ để xây dựng ngân hàng dữ liệu, phổ Quốc tế, viết tắt là IMLD (International Mother biến các ngôn ngữ có nguy cơ mai một. Language Day) là ngày 21 tháng 2 hàng năm Sáu là, giúp cho người bản ngữ hiểu rõ hơn về được UNESCO chọn là ngày lễ quốc tế tại hội nghị vai trò di sản – ngôn ngữ đối với bản sắc văn hóa ngày 17/11/1999. Ngày lễ này đã được Đại hội truyền thống của họ và có ý thức bảo tồn, phát triển đồng Liên Hợp quốc chính thức công nhận. tiếng mẹ đẻ; giúp cho xã hội nói chung và các nhà Ngày tiếng mẹ đẻ Quốc tế được các quốc gia quản lý nói riêng hiểu sâu sắc hơn về vai trò ngôn thành viên UNESCO tổ chức hàng năm tại các trụ ngữ các dân tộc, có hành động thiết thực hơn đối sở UNESCO nhằm quảng bá sự đa dạng ngôn ngữ, với sự đa dạng văn hóa truyền thống trong quốc gia văn hóa và tính đa ngôn ngữ. Với ngày này, cùng đa dân tộc Việt Nam. cảnh báo về nguy cơ mai một của các ngôn ngữ trên Thực tế, trong những năm qua ở Việt Nam, các thế giới, là lời kêu gọi các nhà nước, tổ chức và cá biện pháp trên chỉ được áp dụng lẻ tẻ, mang tính nhân hãy bảo vệ sự đa dạng của các ngôn ngữ, vì thời đoạn và không đồng bộ, chưa mang tính kế điều đó gắn liền với sự đa dạng văn hóa của nhân hoạch và chưa đầu tư đúng mức. Đây cũng là một loại đồng thời mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc, là sự trong những nguyên nhân khiến trạng thái ngôn ngữ tôn trọng đối với phẩm giá và quyền của con người các dân tộc thiểu số nói chung và các dân tộc thiểu - quyền giữ gìn và phát triển cái riêng biệt. số rất ít người, trên thực tế nói chung không lạc Các luận điểm trên có thể xem là cơ sở pháp lý quan, như đã nói ở trên. trong bảo tồn và phát triển ngôn ngữ các dân tộc 6. Kết luận thiểu số. Nguy cơ mai một hiện nay đang đe dọa phần Tuy nhiên, cần báo động về nguy cơ mai một nói lớn các ngôn ngữ ở Việt Nam, trong đó đặc biệt là trên với các nhà hoạch định và thực hiện chính sách các dân tộc thiểu số rất ít người. Các dân tộc này dân tộc, cũng như với những chủ nhân của các ngôn thường là những cộng đồng đang phải đối diện với ngữ, về một tương lai ảm đạm: các dân tộc ở Việt những khó khăn rất lớn so với các dân tộc khác. Nam sẽ nói bằng tiếng Việt hoặc một ngoại ngữ nào Một trong những khó khăn, đặc biệt đó là họ đang đó khác: tiếng mẹ đẻ chỉ còn trong ký ức. Đó là một mất đi những nét văn hóa truyền thống làm nên bản trạng thái đang xảy ra đối với các dân tộc thiểu số tính tộc người, trong đó có ngôn ngữ. Đây là các rất ít người. Rõ ràng đối với ngôn ngữ và văn hóa dân tộc cần nhận được sự quan tâm đặc biệt. cổ truyền nói chung của các dân tộc này, cần có một Đồng thời, cần có những chính sách và giải chính sách đặc thù. pháp thiết thực và khả thi nhằm bảo tồn và phát 5.4.2. Biện pháp triển ngôn ngữ giúp các ngôn ngữ của các dân tộc Về mặt lý thuyết, để bảo tồn và phát triển các này. Trong đó, nhân tố quan trọng nhất đem lại sức ngôn ngữ có nguy cơ mai một nói chung, chúng ta sống cho các ngôn ngữ là chúng được truyền dạy cần thực hiện các biện pháp như sau: và có vai trò (được sử dụng) trong đời sống xã hội. Một là, điều tra, nghiên cứu ngôn ngữ - xã hội - Đây có thể xem là vấn đề then chốt của then chốt tộc người, xác định danh sách và phân loại các ngôn và những điều kiện tồn tại đối với ngôn ngữ các dân ngữ có nguy cơ mai một; xác định phương hướng tộc thiểu số rất ít người, góp phần quan trọng đối kế hoạch hóa và xây dựng chính sách ngôn ngữ. với công tác bảo tồn và phát triển ngôn ngữ của các nhóm dân tộc này trước những nguy cơ bị mai một Hai là, nghiên cứu đầy đủ và sâu hơn về cấu đáng báo động hiện nay. trúc (ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa và ngữ pháp), tình hình chữ viết và những văn bản chữ viết hiện có, tình hình xã hội ngôn ngữ học ở các ngôn ngữ có nguy cơ mai một. Volume 10, Issue 1 115 VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN Tài liệu tham khảo Crystal, D. (2000). Language Death. Cambridge Solncev, V. M. (1982). Về ý nghĩa của việc University Press. nghiên cứu các ngôn ngữ phương đông Evans, N. (2011). Dying Words: Endangered đối với sự phát triển của ngôn ngữ học đại Languages and What They Have to Tell Us. cương. Tạp chí Ngôn ngữ, số 4. John Wiley & Sons Press. Thông, T. V., & Tùng, T. Q. (2017). Ngôn ngữ Lợi, N. V. (2012). Công trình tra cứu về ngôn các dân tộc ở Việt Nam. Nxb. Đại học Thái ngữ và vấn đề bảo tồn ngôn ngữ có nguy cơ Nguyên. tiêu vong. Tạp chí Từ điển học và Bách khoa Thông, T. V., & Tùng, T. Q. (2018). Survival of thư, 2(16). languages in Vietnam at Present. Journal of Lợi, N. V., & Thắng, L. T. (2001). Về sự phát triển Vietnam Academy of Social Sciences, no.1, của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam 76–84. trong thế kỷ XX. Tạp chí Ngôn ngữ, số 2. Tuệ, H., & Ma, H. V. (1984). Ngôn ngữ các dân Mosel, U. (2006). Lexicography in endangered tộc thiểu số Việt Nam và chính sách ngôn language communities. In P. K. Austin ngữ. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. & J. Sallabank (Eds.), The Handbook Viện Ngôn ngữ học. (1993). Những vấn đề of Endangered languages. Cambridge chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam. Hà Nội: University Press. Nxb. Khoa học Xã hội. Peter Ladefoged. (1992). Another view of Viện Ngôn ngữ học. (2002). Cảnh huống và endangered languages. Language, 68(4), chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam. Hà Nội: pp.809-811. Nxb. Khoa học Xã hội. Quỳnh, P. (2007). Tiểu luận (viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932). Hà Nội: Nxb. Tri thức. THE LANGUAGES OF ETHNIC MINORITIES WITH VERY SMALL POPULATION IN VIETNAM BEFORE THE RISK OF EVER DECREASING - SITUATION AND SOLUTIONS Ta Van Thonga Ta Quang Tungb a Vietnam Institute of Lexicography and Abstract Encyclopedia A warning about the danger of extinction in many languages in the Email: tavanthong1955@gmail.com world is not excluded from the current reality in Vietnam, especially b Vietnam Institute of Linguistics for Vietnam ethnic minority languages. Email: quangtung7391@gmail.com The article mentions the following contents: concepts of "ethnic minorities with very few people" and "endangering"; linguistic Received: 03/3/2021 degradation signs: the state and scope of communication, writings and Reviewed: 17/3/2021 formation - development of literary language, language education, Revised: 21/3/2021 survival levels, linguistic studies. Discussion: whether risks of Accepted: 23/3/2021 extinction threaten languages, factors that affect the survival of Released: 30/3/2021 languages, why conserving and developing languages of ethnic groups, solutions to solve endangered languages. DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/518 The most important factor that brings the vitality of languages is languages have to be transmitted and used in social life. Keywords Language policy; Ethnic minority; Languages; Risk of being endangered; Conservation; Traditional culture. 116 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
File đính kèm:
- ngon_ngu_cac_dan_toc_thieu_so_rat_it_nguoi_o_viet_nam_truoc.pdf