Ngôn luận chính trị trong pháp luật Hoa Kỳ
Quyền tự do ngôn luận bảo vệ các truyền thông, biểu đạt của cá nhân
bằng các hình thức, phương tiện khác nhau về mọi chủ đề công hay tư,
trong mọi lĩnh vực như kinh tế, xã hội, văn hóa, hay chính trị. Tại nhiều
quốc gia, bao gồm Hoa Kỳ, tự do ngôn luận trong lĩnh vực chính trị được
đề cao hơn các lĩnh vực khác, do quan niệm rằng, tự do này là thiết yếu
để bảo vệ dân chủ, quyền của người dân giám sát chính quyền, cũng như
chống lại sự tham nhũng, bất bình đẳng trong các sinh hoạt chính trị.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích một số nguyên tắc nền tảng
của tự do ngôn luận và quy định về ngôn luận chính trị, là sự giao thoa
giữa tự do ngôn luận và tự do ứng cử, tranh cử trong các cuộc bầu cử,
theo Hiến pháp và pháp luật Hoa Kỳ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn luận chính trị trong pháp luật Hoa Kỳ
uật Chiến dịch bầu cử liên bang (Federal Election Campaign Act - FECA, 1971, được sửa đổi nhiều lần), Luật Cải cách chiến dịch bầu cử lưỡng đảng (Bipartisan Campaign Reform Act - BCRA, 2002, còn được gọi là McCain - Feingold Act, theo tên của hai thượng nghị sĩ có sáng kiến lập pháp, sửa đổi FECA). Pháp luật về bầu cử có các nội dung về quyền bỏ phiếu, bảo đảm sự tiếp cận của các cử tri dễ bị tổn thương (người khuyết tật, người có khó khăn về ngôn ngữ), đóng góp tài chính, vận động bầu cử, chống gian lận bầu cử Mặc dù, tự do ngôn luận được bảo vệ rộng rãi như nêu trên, trong Luật Chiến dịch bầu cử liên bang và nhiều đạo luật khác liên quan đến bầu cử, có khá nhiều giới hạn đối với ngôn luận chính trị30. Phần nào do cơ quan lập pháp, cũng như tư pháp, thấy cần bảo đảm tính khách quan, ngăn chặn tham nhũng trong bầu cử và bảo đảm bình đẳng trong tranh cử đã được cân bằng với tự do ngôn luận. Nhiều loại ngôn luận đã bị hạn chế với các quy định khác nhau. Luật Chiến dịch bầu cử liên bang xác định truyền thông chính trị có thể là bằng bất kỳ phương tiện nào, gồm truyền hình cáp hoặc vệ tinh, báo, tạp chí, phương tiện 30. Trong Bộ Tổng luật Hoa Kỳ (Code of Laws of the United States of America, hay United States Code), bao gồm 53 lĩnh vực (Tiêu đề/ Title), một số lĩnh vực liên quan được thảo luận ở đây gồm: Bỏ phiếu và bầu cử (Tiêu đề 52), Tội phạm và Tố tụng hình sự (Tiêu đề 18), Luật thuế thu nhập (Tiêu đề 26), Tư pháp và tố tụng tư pháp (Tiêu đề 28), Viễn thông, điện thoại và radio (Tiêu đề 47). 31. Federal Election Commission, Federal Election Campaign Laws, Second Edition, February 2019, tr. 10. 32. Federal Election Commission, Tài liệu đã dẫn, tr. 30-31. Tuy nhiên, Luật này không coi là “truyền thông tác động bầu cử” đối với: truyền thông xuất hiện trong một câu chuyện tin tức, bình luận hoặc bài xã luận được phổ biến qua đài phát thanh, truyền hình, trừ khi các cơ quan truyền thông đó được sở hữu hoặc kiểm soát bởi một đảng phái chính trị, ủy ban chính trị hoặc ứng cử viên nào; truyền thông tạo thành một cuộc tranh luận giữa các ứng cử viên. 33. Federal Election Commission, Tài liệu đã dẫn, tr. 169 - 171. Tuy nhiên, Luật khẳng định những quy định trên không áp dụng với việc xuất hiện bởi một ứng cử viên trên các bản tin, phỏng vấn tin tức, phim tài liệu tin tức chân thực, hoặc đưa tin tại chỗ về các sự kiện tin tức xác thực. quảng cáo ngoài trời, gửi thư hàng loạt, điện thoại, hoặc bất kỳ hình thức quảng cáo chính trị nào khác31. Luật này cũng định nghĩa “truyền thông tác động bầu cử” (“electioneering communication”) là bất kỳ truyền thông phát thanh, truyền hình nào mà đề cập đến một ứng cử viên tranh cử cho một vị trí cấp liên bang, được thực hiện trong vòng 60 ngày trước ngày tổng tuyển cử, hoặc là 30 ngày trước bầu cử sơ bộ, hoặc hội nghị của một đảng chính trị để đề cử một ứng cử viên32. Để bảo đảm đảm sự bình đẳng trong tranh cử, Luật Viễn thông, điện thoại và radio (Chương 5, Tiêu đề 47 của Bộ Tổng luật Hoa Kỳ) yêu cầu các cơ quan truyền thông dành cơ hội bình đẳng cho tất cả các ứng cử viên trong việc sử dụng đài phát sóng, không có quyền kiểm duyệt đối với nội dung phát sóng của các ứng cử viên, thu phí mức ngang nhau cho tất cả các ứng cử viên Về nội dung, ứng cử viên không được trực tiếp nhắc đến các ứng cử viên khác tranh cử cho cùng một vị trí, ở phần cuối của nội dung phát sóng cần xuất hiện hình ảnh của ứng cử viên, xác nhận của ứng cử viên đã chấp nhận nội dung phát sóng và ủy ban chi trả cho phát sóng33 Ở mức độ nghiêm khắc, Luật Hình sự (Chương 18, Tiêu đề 2 của Bộ Tổng KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 50 luật Hoa Kỳ) cấm các ứng cử viên: trực tiếp hay gián tiếp hứa hẹn bổ nhiệm, hoặc dùng ảnh hưởng để ủng hộ việc bổ nhiệm bất kỳ người nào vào vị trí công hay tư nhằm đổi lấy sự ủng hộ mình (Điều 599); trực tiếp hay gián tiếp hứa hẹn tuyển dụng, giao kết hợp đồng hoặc những lợi ích khác để đổi lấy sự ủng hộ hay phản đối ứng cử viên, đảng chính trị (Điều 600); dọa tước đoạt, sa thải ai đó khỏi vị trí, công việc, hay hưởng lợi từ một chương trình cấp liên bang hay tiểu bang để ép họ quyên góp ủng hộ (Điều 601);34 vận động quyên góp đối với một số đối tượng (như người nhận trợ cấp), tại một số địa điểm như văn phòng, tòa nhà cơ quan công quyền (Điều 604, 607)35 Với nguyên tắc bộ máy hành chính đứng ngoài sinh hoạt chính trị đảng phái, luật hình sự cũng cấm ép buộc, dọa nạt, chỉ đạo trong hoạt động chính trị, kể cả của lãnh đạo cơ quan công quyền đối với nhân viên (Điều 610)36. Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã nhận định rằng, muốn các cuộc bầu cử công bằng và trung thực cần có nhiều quy định kỹ lưỡng, cũng như cần có trật tự đi kèm với tiến trình dân chủ, tránh sự hỗn loạn37. Điều thú vị là cùng với việc pháp luật đặt ra những giới hạn đối với ngôn luận trong 34. Federal Election Commission, Tài liệu đã dẫn, tr.122-123. 35. Federal Election Commission, Tài liệu đã dẫn, tr.124-125. 36. Điều 610 Luật hình sự và tố tụng hình sự (Tiêu đề 18) quy định rằng: “Sẽ là bất hợp pháp nếu bất kỳ người nào đe dọa, dọa nạt, chỉ đạo, hoặc ép buộc, hoặc cố gắng đe dọa, dọa nạt, chỉ đạo, hoặc ép buộc bất kỳ nhân viên nào của Chính phủ Liên bang tham gia hoặc không tham gia vào bất kỳ hoạt động chính trị nào, bao gồm, nhưng không giới hạn, bỏ phiếu hoặc từ chối bỏ phiếu cho bất kỳ ứng cử viên nào, thực hiện hoặc từ chối đóng góp chính trị, làm việc hoặc từ chối làm việc thay mặt cho bất kỳ ứng cử viên nào. Bất kỳ người nào vi phạm nội dung này sẽ bị phạt theo tiêu đề này hoặc bị phạt tù không quá ba năm, hoặc cả hai”. Federal Election Commission,Tài liệu đã dẫn, tr.126. 37. Michael Richard Dimino, Tài liệu đã dẫn. 38. Karen O’Connor, Larry J. Sabato, American Government, Nxb. Pearson Longman, 2006, tr. 525-529. Cũng theo đó, các loại nguồn đóng góp chính trị cho một chiến dịch vận động của ứng cử viên có thể bao gồm: đóng góp cá nhân, đóng góp của các Ủy ban Hành động chính trị (PAC), đóng góp của đảng chính trị, đóng góp của cá nhân ứng cử viên và gia đình họ, quỹ công, các khoản chi độc lập. tranh cử, Tòa án đã kết nối quyền tự do biểu đạt, ngôn luận với lĩnh vực tài chính trong bầu cử. Theo Luật Bầu cử (Chương 301, Tiêu đề 52 của Bộ Tổng luật Hoa Kỳ), Ủy ban Bầu cử liên bang (FEC) có trách nhiệm giám sát nhiều quy định liên quan, bao gồm giới hạn mức tiền mà cá nhân, tổ chức có thể quyền góp trong bầu cử. Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã lập luận rằng, đóng góp tài chính là biểu đạt sự ủng hộ đối với một ứng cử viên, cũng như sự gắn kết với một đảng chính trị, nhưng để ngăn chặn tham nhũng, việc chính quyền đặt ra giới hạn mà cá nhân có thể đóng góp ủng hộ một ứng cử viên là có thể biện minh được. Bởi lẽ, việc vận động bầu cử tiêu tốn rất nhiều tiền bạc, các ứng cử viên phải phụ thuộc vào sự đóng góp từ nhiều nguồn, điều này làm phát sinh nguy cơ có những người tài trợ để gây ảnh hưởng, đổi lấy những lợi ích chính trị trong tương lai38. Mặt khác, Tòa án công nhận rằng, truyền thông vận động bầu cử (in tờ rơi, quảng cáo trên truyền hình) tiêu tốn nhiều tiền; trong khi đó, chính quyền khó có thể lấy lý do chống tham nhũng để biện minh cho việc giới KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 51 hạn chi tiêu (expenditure)39. Do đó, trong vụ Buckley kiện Valeo (1976)40, Tòa án tối cao đã kết luận rằng, Luật Chiến dịch bầu cử quy định giới hạn đối với đóng góp bầu cử thì không vi hiến, nhưng quy định về giới hạn chi tiêu bầu cử lại là trái với Tu chính án thứ I41. Chi tiêu gián tiếp cho quảng cáo chính trị được tranh luận trong vụ McConnell kiện Ủy ban Bầu cử liên bang (2003)42. Thượng nghị sĩ Mitch McConnell (đảng Cộng hòa, bang Kentucky) đã kiện Luật Cải cách chiến dịch bầu cử lưỡng đảng (2002) vi phạm Tu chính án thứ I, vì cấm các tổ chức, công đoàn công khai vận động ủng hộ hoặc chống lại một ứng cử viên ngay trước kỳ bầu cử, hành động mà Luật gọi là “truyền thông tác động bầu cử”, như đã nêu trên. Đa số thẩm phán của Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho rằng, ngoại trừ hai điểm tương đối nhỏ, toàn bộ đạo luật là phù hợp với Hiến pháp, kể cả việc cấm chi tiêu độc lập của các tổ chức xã hội cho vận động, quảng cáo chính trị trong thời gian sát trước các cuộc bầu cử43. Tuy nhiên, chỉ 7 năm sau, một phần của phán quyết trên đã bị chính Tòa án tối cao Hoa Kỳ lật ngược lại trong vụ Citizens United kiện Ủy ban Bầu cử liên bang (FEC) (2010)44. Vào năm 2008, khi Barack Obama và Hillary Clinton đang vận động 39. Craig R.Smith, Buckley v. Valeo, trong sách Richard A. Parker, “Free Speech on Trial: Communication Perspectives on Landmark Supreme Court Decisions”, Nxb. Đại học Alabama, 2003, tr. 203 - 214. 40. Craig R.Smith, Tài liệu đã dẫn. 41. Lập luận chống lại hạn chế chi tiêu bầu cử này đã được áp dụng đối với tranh cử ở cấp tiểu bang, theo phán quyết của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong vụ Nixon kiện Shrink Missouri Government PAC (2000). 42. Geoffrey R. Stone, Louis M. Seidman, Cass R. Sunstein, Mark V. Tushnet, và Pamela S. Karlan, Constitutional Law, Sixth edition, Nxb. Wolters Kluwer, tr. 1365 -1370. 43. Geoffrey R. Stone, Tài liệu đã dẫn. 44. Jame Bopp, Jr, Joseph E. La Rue, và Elizabeth M. Kosel, The Game Changer: Citizens United’s Impact on Campaign Finance Law in General and Corporate Political Speech in Particular, trong Tạp chí “First Amendment Law Review”, Vol. 9, 2011, tr. 316-319. 45. Jame Bopp, Jr, Joseph E. La Rue, và Elizabeth M. Kosel, Tài liệu đã dẫn, tr. 319. Xem thêm về ảnh hưởng của phán quyết trong vụ này đối với vận động tranh cử tại Hoa Kỳ: Lê Thị Thu (Chủ biên), Phân cực chính trị ở Mỹ hiện nay: Tình hình, nguyên nhân và tác động, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 230-232. tranh dành ghế ứng viên của Đảng Dân chủ cho vị trí Tổng thống, một tổ chức phi chính phủ là Citizens United (Công dân Đoàn kết) đã sản xuất, phát hành bộ phim tài liệu với nội dung phê phán Hillary. Trước khi phát hành, tổ chức này đã khởi kiện ra tòa án, cho rằng việc Luật Cải cách chiến dịch bầu cử lưỡng đảng (2002) cấm “truyền thông tác động bầu cử” là vi phạm Tu chính án thứ I, nhằm ngăn chặn Ủy ban Bầu cử áp dụng quy định này đối với bộ phim của mình. Trong một phán quyết sát sao, theo tỷ lệ 5 - 4, Tòa án kết luận rằng giới hạn đối với chi tiêu của các tổ chức và công đoàn là vi phạm tự do ngôn luận45. Vì tiêu tiền là điều cần thiết để phổ biến ngôn luận, như đã được thiết lập trong vụ Buckley kiện Valeo, việc hạn chế khả năng chi tiêu tiền của một tổ chức là vi hiến vì nó hạn chế khả năng các thành viên liên kết hiệu quả và phát biểu về các vấn đề chính trị. Phán quyết này cho phép các tổ chức, công đoàn chi tiêu không giới hạn vào việc vận động chính trị. Chi tiêu này còn được gọi là “tiền mềm”, khoản tiền không được quyên góp trực tiếp mà gián tiếp ủng hộ chiến dịch của một ứng cử viên. Trong vụ kiện năm 2010 nêu trên, Tòa án tối cao cũng kết luận rằng, quyền tự do ngôn luận cũng áp dụng cho các tổ chức; KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 52 nói cách khác, các pháp nhân cũng có quyền phát ngôn chính trị như cá nhân46. Nhận định này phủ nhận một số án lệ trước đây47, khi đó, Tòa án lo ngại về việc các tổ chức, doanh nghiệp có thể gây ảnh hưởng tiêu cực, làm mất công bằng trong các cuộc bầu cử. 3. Nhận xét Có thể nói rằng, tự do ngôn luận, đặc biệt là ngôn luận trong lĩnh vực chính trị, đã được Tu chính án thứ I của Hiến pháp và hệ thống pháp luật Hoa Kỳ bảo vệ khá mạnh mẽ trong khoảng một thế kỷ qua. Bên cạnh đó, để bảo đảm cho các cuộc bầu cử được công bằng và trật tự, quyền ngôn luận đã chịu những giới hạn đáng kể. Từ những phân tích về quyền tự do ngôn luận chính trị ở Hoa Kỳ, có thể rút ra hai nhận xét sau đây: Thứ nhất, khi bảo vệ quyền tự do ngôn luận chính trị, các bản án của Tòa án tối cao Hoa Kỳ để lại nhiều ấn tượng về sự đa dạng, uyên bác và linh hoạt. Người đọc còn thấy được vai trò, quan điểm và lập luận của từng cá nhân thẩm phán trong các bản án, dù là lý lẽ tán đồng hay 46. Amy J. Sepinwall, Citizens United and the Ineluctable Question of Corporate Citizenship, trong Tạp chí “Connecticut Law Review”, Volume 44, February 2012, Number 3, tr. 577 - 578. 47. Như trong vụ Austin kiện Michigan Chamber of Commerce (1990), Tòa án Tối cao ủng hộ Luật Tài chính chiến dịch bầu cử Michigan, cấm các tổ chức dùng tiền ngân sách để chi tiêu độc lập vào việc ủng hộ hoặc phản đối các ứng cử viên, và không vi phạm Tu chính án thứ I và thứ XIV. Tòa án duy trì giới hạn đối với ngôn luận của tổ chức, cho rằng “sự giàu có của các tổ chức có thể tác động không công bằng đến bầu cử”. Tuy nhiên, luật của bang Michigan vẫn cho phép ủng hộ tài chính cho chiến dịch bầu cử từ một quỹ tách riêng. 48. Xem thêm sự phát triển tư tưởng, quan điểm, lập luận về ngôn luận của các thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ (gồm Oliver W.Holmes, George Sutherland, Hugo L.Black, John Marshall Harlan, William J.Brennan), trong sách Helen J. Knowles, Steven B. Lichtman (Biên tập), Judging Free Speech: First Amendment Jurisprudence of US Supreme Court Justices, Nxb. Palgrave Macmillan US, 2015. 49. Nguyễn Trí Tuệ (Chủ biên), Giáo trình Án lệ và thực tiễn xét xử, Nxb. Đại học Quốc gia, 2019, tr. 44. 50. Nguyễn Hòa Bình, Xây dựng Tòa án nhân dân xứng đáng là biểu tượng của công lý, lẽ phải và niềm tin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, tr. 148. Trong bài giảng của mình về cải cách tư pháp tại lớp bồi dưỡng cho cán bộ quy hoạch, tháng 8/2019, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã đề cập đến việc tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm các nước về tổ chức bộ máy, về chính sách hình sự, cơ chế hoạt động tư pháp, các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của tòa án. Xem: Nguyễn Hòa Bình, Tài liệu đã dẫn, tr. 148-156. phản đối48. Tại Việt Nam, án lệ đã được công nhận, nghiên cứu và giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật học. Án lệ cũng được coi là “sự bổ sung tuyệt vời cho luật thành văn”, khi luật thành văn chưa thể “bao phủ hết các quan hệ xã hội đa dạng và thay đổi từng ngày”49. Bên cạnh đó, trong bối cảnh chúng ta đang tích cực tham khảo và “tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học pháp lý tiên tiến”50, án lệ về các quyền tự do, bao gồm tự do ngôn luận, của các nước (bao gồm Hoa Kỳ) cần tiếp tục được tập hợp, biên dịch và nghiên cứu hệ thống hơn. Thứ hai, quy định giới hạn ngôn luận trong tranh cử nhằm bảo đảm sự bình đẳng, giảm thiểu tham nhũng và sự hỗn loạn, một cách khá chi tiết trong luật bầu cử của Hoa Kỳ là những kinh nghiệm hay để tham khảo. Mặc dù quốc gia này có hệ thống bầu cử khá đặc biệt, các quy định hướng đến cân bằng giữa bảo đảm tự do ngôn luận với minh bạch, bình đẳng trong bầu cử cũng gợi ra nhiều khía cạnh cho các quốc gia tham khảo khi hoàn thiện pháp luật về bầu cử của mình
File đính kèm:
- ngon_luan_chinh_tri_trong_phap_luat_hoa_ky.pdf