Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau

Nghiên cứu nhằm mục đích phân tích xu hƣớng lựa chọn ‗chủ ngữ thể hiện điểm nhìn‘

khi kể chuyện bằng tiếng Nhật của ngƣời Nhật và ngƣời Việt học tiếng Nhật theo các

ngôi kể khác nhau. Kết quả cho thấy, so với kể chuyện theo ngôi thứ ba thì khi kể chuyện

theo ngôi kể thứ nhất, sự lựa chọn chủ ngữ là nhân vật ―tôi‖ của ngƣời Việt học tiếng

Nhật tăng lên, tính cố định chủ ngữ cao hơn; năng lực tiếng Nhật càng cao thì sự cố định

chủ ngữ càng cao. Kết quả này góp phần quan trọng vào việc tìm ra hƣớng luyện tập phù

hợp để xây dựng ý thức lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện bằng tiếng Nhật của ngƣời học

theo xu hƣớng gần với ngƣời bản xứ hơn.

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 1

Trang 1

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 2

Trang 2

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 3

Trang 3

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 4

Trang 4

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 5

Trang 5

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 6

Trang 6

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 7

Trang 7

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 8

Trang 8

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 9

Trang 9

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang xuanhieu 03/01/2022 2500
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau

Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau
ệ lấy nhân vật chính làm chủ ngữ 
Nhóm 
Kể chuyện theo ngôi 
thứ ba 
Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- 
―ngƣời chị‖ 
Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- 
―ngƣời em‖ 
―ngƣời 
chị‖ 
―ngƣời 
em‖ 
―ngƣời chị‖(tôi) ―ngƣời em‖ ―ngƣời chị‖ ―ngƣời em‖(tôi) 
VA 25.2% 33.0% 36.7% 27.0% 23.3% 46.1% 
VB 21.0% 36.2% 37.6% 30.1% 17.4% 48.0% 
VC 23.2% 30.4% 34.0% 26.5% 12.3% 51.0% 
VD 22.8% 30.6% 41.5% 29.8% 12.9% 58.0% 
JJ 27.1% 28.1% 54.9% 20.4% 15.4% 58.9% 
VV 32.4% 33.6% 40.8% 26.4% 27.8% 48.7% 
Trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi kể ―ngƣời chị‖, nhóm ngƣời Nhật có tỉ lệ chủ ngữ là 
―tôi‖ (nhân vật ―ngƣời chị‖) nhiều gấp đôi chủ ngữ là ―ngƣời em‖. Tuy nhiên, với ngƣời Việt 
học tiếng Nhật thì sự chệnh lệch của hai chủ ngữ nói trên không lớn. 
 Trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi kể ―ngƣời em‖, theo Bảng 7, ngƣời Việt học tiếng 
Nhật trình độ càng cao thì tỉ lệ lấy nhân vật ―tôi‖ (nhân vật ―ngƣời em‖) làm chủ ngữ nhiều 
hơn chủ ngữ là ―ngƣời chị‖. Xu hƣớng lựa chọn chủ ngữ này gần với nhóm ngƣời Nhật. 
Tuy nhiên, nếu không xét theo toàn văn mạch mà xét theo đơn vịtình huống/ chuỗi 
huống thì giống nhƣ ngƣời Nhật, ngƣời Việt học tiếng Nhật có năng lực tiếng Nhậtcàng cao 
thì sự cố định chủ ngữ khi kể chuyện càng cao. Nghĩa là trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi thứ 
nhất, trình độ năng lực tiếng Nhật tỉ lệ thuận với tính cố định chủ ngữ. Trƣờng hợp kể chuyện 
theo ngôi thứ ba thì kết quả nghiên cứu cho thấy sự cố định chủ ngữ cao hay thấp không liên 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 552 
quan đến trình độ năng lực tiếng Nhật mà liên quan đến nội hàm tình huống nhiều hơn. 
Nghĩa là, có tình huống thì theo lối kể của ngƣời Việt dễ cố định chủ ngữ, có tình huống thì 
khó cố định chủ ngữ. 
 Ví dụ nhƣ ở tình huống 1 dƣới đây, theo Bảng 6, trong khi nhóm ngƣời Nhật khi kể 
chuyện theo ngôi thứ nhất có sự cố định chủ ngữ cao thì ngƣợc lại, nhóm ngƣời học trình độ 
sơ cấp- trung cấp mặc dù có xuất hiệnmột số đối tƣợng đặt điểm nhìn cố định, thống nhất chủ 
ngữ khi kể nhƣng tỉ lệ thấp. Nhóm đối tƣợng có năng lực tiếng Nhậttrình độ cao cấp, khi kể 
chuyện theo ngôi thứ nhất thì chủ ngữ có khuynh hƣớng cố định cao hơn so với kết quả kể 
chuyện theo ngôi thứ ba, xu hƣớng này tƣơng đồng với nhóm ngƣời Nhật. 
Bảng 6: Sự cố định và thay đổi chủ ngữ trong tình huống 1(n=18) 
Nhóm 
Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- 
ngƣời chị 
Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- 
ngƣời em 
Cố định chủ ngữ 
Thay 
đổi chủ 
ngữ 
Cố định chủ 
ngữ 
Thay đổi 
chủ ngữ 
Cố định chủ ngữ 
Thay đổi 
chủ ngữ 
VA 0 18 1 17 3 15 
VB 2 16 3 15 2 16 
VC 0 18 4 14 7 11 
VD 2 16 9 9 13 5 
JJ 5 13 12 6 13 5 
VV 0 18 3 15 2 16 
 Dƣới đây là ví dụ ngƣời học VC16. Quan sát ví dụ này sẽ thấy sự thay đổi trong lựa 
chọn chủ ngữ qua 3 lần kể chuyện theo chỉ thị ngôi kể khác nhau. 
Ví dụ 5: 
 Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ 
nhất (ngƣời chị) 
Kể chuyện theo ngôi thứ nhất 
(ngƣời em) 
VC16 [ngƣời chị]お姉さんはき
れいな人形を持っていま
す。その時、[ngƣời em]
弟さんはソフトクリームを
持っています。[ngƣời chị+ 
ngƣời em]二人は換えてい
ます。 
[ngƣời chị]私は母に
きれいな人形をもらい
ました。その時、
[ngƣời chị]弟が持っ
ているおいしそうアイ
スクリームをとても食
べたいです。だから、
[ngƣời chị]私は換え
ました。 
[ngƣời em]私は母においし
いアイスクリームを買っても
らいましたから、その時、
[ngƣời em]姉が持っている
人形を遊びたいです。だか
ら、[ngƣời em]私は換えま
した。 
 Ở chuỗi tình huống 3-4-5, thì các nhóm ngƣời học có xu hƣớng cố định chủ ngữ ở 
nhân vật ―ngƣời mẹ‖ khi kể chuyện khá cao, kể cả lúc kể chuyện ở ngôi thứ ba lẫn khi kể 
chuyện ở ngôi thứ nhất. 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 553 
Bảng 9: Sự cố định và thay đổi chủ ngữ trong chuỗi tình huống 3-4-5(n=18) 
Nhóm 
Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- 
Ngƣời chị 
Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- 
Ngƣời em 
Cố định chủ ngữ 
Thay đổi 
chủ ngữ 
Cố định chủ ngữ 
Thay đổi 
chủ ngữ 
Cố định chủ ngữ 
Thay đổi 
chủ ngữ 
VA 7 11 8 10 9 9 
VB 9 9 7 11 10 8 
VC 12 6 14 4 14 4 
VD 17 1 17 1 15 3 
JJ 14 4 12 6 10 8 
VV 7 11 12 6 13 5 
Ví dụ 6: 
 Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ 
nhất (ngƣời chị) 
Kể chuyện theo ngôi thứ 
nhất (ngƣời em) 
VC19 [ngƣời mẹ]弟さんの泣き
声を聞いたら、[ngƣời mẹ]
お母さんが入りました。
[ngƣời em]弟さんは泣き
ながら、[ngƣời em]お母さ
んに走っていました。それ
から、[ngƣời mẹ]お母さん
はお姉さんに人形を直して
あげました 
[ngƣời mẹ]弟の泣き
声を聞いたら、[ngƣời 
mẹ]母は入っていまし
た。[ngƣời mẹ]そし
て、母は私に人形を直
してくれました。 
それから、[ngƣời mẹ]
母は私の泣き声を聞き
ました。それから、
[ngƣời mẹ]母が入り
ました。[ngƣời mẹ]母
は姉の人形を直ってあ
げました。 
Ngoài ra, so sánh Bảng 2, Bảng 3 và Bảng 4, có thể thấy sự thay đổi trong việc chọn 
đa đối tƣợng làm chủ ngữ nhƣ cách nói ―ngƣời chị và ngƣời em‖, ―hai chị em‖, ―mẹ và em 
trai‖, giảm đi đáng kể khi kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Đồng thời, so với kể chuyện theo ngôi 
thứ ba, khi kể chuyện theo ngôi thứ nhất,tỉ lệ tỉnh lƣợc chủ ngữ là ngôi thứ nhất tăng lên. 
5.2. Thảo luận và kiến nghị 
 Kết quả phân tích từ mục 4.1 và 4.2 đã làm rõ sự thay đổi lựa chọn nhận vật/đối tƣợng 
để làm chủ ngữ của ngƣời Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện. Có nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến 
sự thay đổi lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện, ở đây, chúng tôi xin luận về 2 yếu tố ảnh hƣởng 
quan trọng dƣới đây: 
5.2.1. Ảnh hưởng của ý thức lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn và ý thứccố địnhchủ 
ngữ khi kể chuyện 
 Ý thức lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn và ý thức cố định chủ ngữ khi kể chuyện về 
bản chất bị ảnh hƣởng lớn bởi tiếng mẹ đẻ. Lê (2018) khi đối chiếu một số tác phẩm văn học 
Nhật Bản và bản dịch tiếng Việt tƣơng ứng đã đƣa ra kết luận: tiếng Nhật có xu hƣớng thống 
nhất điểm nhìn (nắm bắt sự vật, sự việc một cách chủ quan/主観的把握); ngƣợc lại tiếng Việt 
có xu hƣớng di chuyển điểm nhìn (nắm bắt sự vật, sự việc một cách khách quan/客観的把握). 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 554 
Đó là lý do, trong trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi thứ ba, nhóm ngƣời Nhật có sự cố định chủ 
ngữ ở một số tình huống/ chuỗi tình huống, trong khi đó, nhóm ngƣời Việt- kể cả nhóm trình 
độ tiếng Nhật trung cấp, cao cấp thƣờng có xu hƣớng thay đổi chủ ngữ nhiều hơn. 
 Nhƣ đã nói ở trên, tiếng Việt là ngôn ngữ có tính cố định chủ ngữ- thống nhất điểm nhìn 
ngôn ngữ không cao. Chính vì thế, dữ liệu từ nhóm đối tƣợng khảo sát ngƣời Việt (VV) khi 
kể chuyện bằng tiếng Việt cho thấy mức độ cố định chủ ngữ không đƣợc nâng cao đáng kể dù 
kể chuyện theo ngôi thứ ba hay ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, đối với ngƣời họcthì trƣờng hợp kể 
chuyện theo ngôi thứ nhất, tỉ lệ chủ ngữ ―tôi‖ tƣơng ứng với chỉ thị nghiên cứu tăng lên. Năng 
lực tiếng Nhật càng cao thì sự cố định chủ ngữ càng cao, càng gần với ngƣời Nhật hơn. Đặc 
biệt, với những tình huống có sự tƣơng tác qua- về giữa các nhân vật, thông thƣờng ngƣời 
Nhật sẽ sử dụng những ngữ chỉ điểm nhìn nhƣ ―bị động (受身表現)‖, ―cho- nhận (授受表
現)‖, ―di chuyển(移動表現)‖ để cố định điểm nhìn, giúp văn mạch dễ hiểu hơn nhất là đối với 
ngôn ngữ có hiện tƣợng tỉnh lƣợc chủ ngữ nhiều nhƣ tiếng Nhật. Đối tƣợng mới bắt đầu học 
tiếng Nhật hoặc chƣa nắm bắt, thuần thục đƣợc cách đặt điểm nhìn của tiếng Nhật thì thƣờng 
sử dụng―điểm nhìn thần thánh‖ (神の視点) hay nói cách khác dùng một camera (カメラアン
グル) quét từ trên xuống, đặt điểm nhìn xa các nhân vật, đối tƣợngkhiến chủ ngữ dễ bị thay 
đổi. Nhƣ thế, với một ngôn ngữ có xu hƣớng kể chuyện một cách khách quan nhƣ tiếng Việt 
thì việc chỉ thị kể chuyện theo phƣơng thức tăng tính chủ quan, để ngƣời kể chuyện ―gần‖ với 
nhân vật hơn nhƣ cách kể ở ngôi thứ nhất đã cho kết quả tác động tích cực đến ý thức lựa 
chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của ngƣời Việt học tiếng Nhật. 
 Đặt điểm nhìn vào đối tƣợng nào để chọn làm chủ ngữ cũng ít nhiều bị ảnh hƣởng bởi 
các yếu tố khác nhƣ yếu tố tâm lý hay giới tính,v.v... Ví dụ, thông thƣờng, nếu ngƣời kể là nữ 
thì thƣờng dễ đặt điểm nhìn vào nhân vật ―ngƣời chị‖- cùng giới tính với mình; nếu ngƣời kể 
cảm thấy có nhiều đồng cảm với ngƣời em thì có xu hƣớng đặt điểm nhìn vào nhân vật 
―ngƣời em‖. Việc xác định sự lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện có bị ảnh hƣởng bởi những yếu 
tố trên không, cần đƣợc khảo sát sâu hơn. Trong giới hạn khảo sát này, kết quả cho thấy: đối 
tƣợng khảo sát nhất là ngƣời học, có xu hƣớng chọn nhân vật ―ngƣời em‖ làm chủ ngữ dễ hơn 
các nhân vật khác. Trong khảo sát này, nhân vật ―ngƣời em‖ có nhiều hành vi, hành động hơn 
so với các nhân vật khác. Phải chăng đó là một trong những lý do khiến ngƣời Việt học tiếng 
Nhật có xu hƣớng bị ―hút‖ điểm nhìn vào ―ngƣời em‖ nên thƣờng lấy nhân vật ―ngƣời em‖ 
làm chủ ngữ. Ngoài ra, trong tiếng Việt thì việc thay đổi chủ ngữ liên tục không phải là điều 
cấm kị trong văn phong, không phải bao giờ cũng khiến văn mạch bị đánh giá là khó hiểu. 
Ngƣợc lại, khi kể chuyện, nếu không có dụng ý nghệ thuật đặc biệt, việc lặp lại chủ ngữ (ví dụ 
nhƣ chủ ngữ ―tôi‖) quá nhiều lần, quá gần nhau có thể khiến đoạn văn trở nên nhàm chán. Ý 
thức về việc lặp lại của chủ ngữ và thói quen kể chuyện bằng tiếng mẹ đẻ có lẽ cũng ảnh 
hƣởng nhiều đến việc lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện của ngƣời Việt học tiếng Nhật. 
5.2.1. Ảnh hưởng của việc chỉ thị ngôi kể chuyện đến sự lựa chọn chủ ngữ 
 Kết quả khảo sát cho thấy: chỉ thị ngôi kể khác nhau thì sự lựa chọn đối tƣợng làm chủ 
ngữ khi kể chuyện cũng thay đổi. Đó là điều tất nhiên trong quy tắc ứng dụng ngôn ngữ. Theo 
Takemura (2010), luyện tập cho ngƣời học tiếng Nhật kể một câu chuyện tranh (漫画描写) 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 555 
hay kể kinh nghiệm của bản thân trong cuộc sống hằng ngày (ナラティブ) theo ngôi thứ nhất 
là cách dễ luyện tập và có hiệu quả nhất. Bởi vì con ngƣời chúng ta dù đến từ quốc gia nào 
cũng có điểm chung là sẽ dễ dàng hơn khi kể một câu chuyện của bản thân, câu chuyện chủ 
quan nhìn từ hƣớng nhìn của mình và có khuynh hƣớng đặt điểm nhìn vào bản thân khi kể 
chuyện. Chính vì lý do đó, kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy: so với việc kể chuyện 
khách quan theo ngôi thứ ba, ngƣời Việt học tiếng Nhật có xu hƣớng ít thay đổi chủ ngữ hơn 
khi kể chuyện theo ngôi thứ nhất; năng lực ngôn ngữ càng cao thì sự khác biệt với ngƣời Nhật 
càng ít khi kể chuyện theo ngôi thứ nhất. 
 Việc chỉ thị ngôi kể cũng khiến ngƣời học tập trung hơn vào đối tƣợng đƣợc đặt ngôi kể, 
nói cách khác là tập trung điểm nhìn vào nhân vật ―tôi‖. Đó cũng là lý do mà ở kết quả khảo 
sát kể chuyện theo ngôi kể thứ nhất cho thấy: việc lựa chọn đa đối tƣợng làm chủ ngữ nhƣ là 
―hai chị em‖, ―ngƣời chị và ngƣời em‖ giảm xuống đáng kể hơn so với kể chuyện theo ngôi 
thứ ba. 
 Vì thế, xác định xem sự chỉ thị điểm nhìn có thực sự có hiệu quả trong việc lựa chọn 
chủ ngữ khi kể chuyện của ngƣời Việt học tiếng Nhật hay không cần đƣợc khảo sát kỹ hơn 
không chỉ 1 lần mà cần nhiều lần, không chỉ sử dụng một tài liệu nghiên cứu là tranh mà cần 
đa dạng phƣơng thức nghiên cứu hơn, đồng thời cũng cần phân nhóm thực nghiệm để thấy rõ 
kết quả. Với những kết quả bƣớc đầu ở khảo sát này, chúng tôi nhận thấy: ngƣời học tiếng 
Nhật từ trình độ sơ cấp đến cao cấp có sự thay đổi sự lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện, phù 
hợp với ngôi kể;trình độ năng lực ngôn ngữ càng cao thì xu hƣớng lựa chọn chủ ngữ càng gần 
với nhóm ngƣời Nhật hơn. Vì thế, đối với ngƣời học tiếng Nhật, trƣớc khi luyện tập kể 
chuyện theo ngôi thứ ba, việc luyện tập cho ngƣời học kể chuyện bằng tranh vẽ theo chỉ thị 
ngôi kể thứ nhất sẽ phù hợp cho việc xây dựng ý thức về cố định chủ ngữ - điểm nhìn thƣờng 
có trong tiếng Nhật. Ở Việt Nam, hình thức kể chuyện theo ngôi thứ nhất này là hình thức 
luyện tập khá gần gũi với ngƣời học, vì thƣờng đƣợc đƣa vào giảng dạy và luyện tập trong 
chƣơng trìnhmôn Tiếng Việttừ bậc tiểu học. Do đó, chúng tôi hy vọng, việc luyện tập kể 
chuyện theo ngôi thứ nhất sẽ giúp ngƣời học xây dựng đƣợc ý thức cố định điểm nhìn của 
tiếng Nhật, nhờ đó khi kể chuyện theo ngôi thứ ba, tính cố định chủ ngữ- điểm nhìn trong khi 
kể chuyện sẽ cao hơn, tiếng Nhật sẽ tự nhiên hơn. Việc luyện tập kể chuyện theo ngôi thứ 
nhất trƣớc, sau đó kể chuyện theo ngôi thứ ba nên bắt đầu từ trình độ sơ cấp và lặp đi lặp lại 
nhiều lần để đẩy nhanh quá trình hình thành ý thức về điểm nhìn của tiếng Nhật đối với ngƣời 
học. Ở ngƣời học trình độ trung cấp, cao cấp ở Việt Nam cũng nhƣ ngƣời học có kinh nghiệm 
thực hành tiếng ở Nhật Bản nên cho luyện tập không chỉ bằng tranh vẽ mà cònmở rộng hơn 
bằng hình thức kể những câu chuyện, trải nghiệm cá nhân; hoặc nâng cao lên bằng những đề 
tài mang tính nghị luận. Việc luyện tập kể chuyện, nêu ý kiến cá nhân bằng tiếng Nhật và việc 
chú trọng chỉnh sửa lỗi sai điểm nhìn của giáo viên có vai trò rất quan trọng trong việc lĩnh 
hội điểm nhìn, thẩm thấu lối nói tự nhiên trong tiếng Nhật của ngƣời học. 
6. Kết luận 
 Với phƣơng pháp so sánh sự lựa chọn chủ ngữ của các nhóm ngƣời Việt học tiếng Nhật 
ở cấp độ năng lực khác nhau khi kể chuyện theo ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất, chúng tôi nhận 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 556 
thấy xu hƣớng sau:so với kể chuyện theo ngôi thứ ba thì khi kể chuyện theo ngôi kể thứ nhất, 
sự lựa chọn chủ ngữ là nhân vật đƣợc chỉ thị điểm nhìn (―tôi‖) của ngƣời Việt học tiếng Nhật 
tăng lên, tính cố định chủ ngữ cao hơn; năng lực tiếng Nhật càng cao thì sự cố định chủ ngữ 
càng cao. Có thể thấy việc chỉ thị kể chuyện theo ngôi thứ nhất có những tác động tích cực 
đến sự lựa chọn chủ ngữ của ngƣời học nên cần đƣợc xem xét để sử dụng nhƣ là một trong 
những phƣơng pháp để rèn luyện cách đặt điểm nhìn khi kể chuyện của ngƣời Việt học tiếng 
Nhật. 
Tài liệu tham khảo 
Diệp Quang Ban (2005). Ngữ pháp tếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. 
Kim Kyonju (2001). 談話構成における母語話者と学習者の視点-日韓両言語における主語と
動詞の用い方を中心に-.日本語教育, 109, 60-90. 
Kuno Susumi (1978). 談話の文法. Tokyo: 大修館書店. 
Le Cam Nhung (2018). ベトナム人日本語学習者の産出文章に見られる視点の表し方及びその
指導法:学習者の〈気づき〉を重視する指導法を中心に. Tokyo: ココ出版. 
Takemuwa Miwa (2010). 日本語母語話者と中国語日本語学習者の談話に見られる視座-パー
ソナル・ナラティブと漫画描写の比較-.広島大学院教育学研究科紀要, 59, 289-298. 
Tashiro Hitomi (1995). 中上級日本語学習者の文章表現の問題点-不自然さ・わかりにくさの
原因をさぐる-.日本語教育, 85, 25-37. 
RESEARCH ON THE INCLINATION OF USING "SUBJECT 
EXPRESSING VIEWPOINT" OF VIETNAMESE AS JAPANESE 
LEARNERS WHEN APPLYING DIFFERENT SUBJECTS 
TO TELL STORIES 
Abstract 
This study aims to analyze the tendency of using ―subject expressing point of view‖ when 
speaking Japanese between Japanese and Vietnamese who are Japanese learners. This 
investigation found that, Vietnamese tend to apply first subject "I" relatively more than 
third subject when they tell stories. And, the higher level of Japanese they are, the more 
constantly they use first subject. This finding is important to search for appropriate 
practice methods to build up their skills of choosing subjects which are close to native 
speakers. 
Keywords 
subject, viewpoint, storytelling 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ve_su_lua_chon_chu_ngu_the_hien_diem_nhin_cua_ngu.pdf