Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau
Nghiên cứu nhằm mục đích phân tích xu hƣớng lựa chọn ‗chủ ngữ thể hiện điểm nhìn‘
khi kể chuyện bằng tiếng Nhật của ngƣời Nhật và ngƣời Việt học tiếng Nhật theo các
ngôi kể khác nhau. Kết quả cho thấy, so với kể chuyện theo ngôi thứ ba thì khi kể chuyện
theo ngôi kể thứ nhất, sự lựa chọn chủ ngữ là nhân vật ―tôi‖ của ngƣời Việt học tiếng
Nhật tăng lên, tính cố định chủ ngữ cao hơn; năng lực tiếng Nhật càng cao thì sự cố định
chủ ngữ càng cao. Kết quả này góp phần quan trọng vào việc tìm ra hƣớng luyện tập phù
hợp để xây dựng ý thức lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện bằng tiếng Nhật của ngƣời học
theo xu hƣớng gần với ngƣời bản xứ hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu về sự lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của người Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện theo các ngôi kể khác nhau
ệ lấy nhân vật chính làm chủ ngữ Nhóm Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- ―ngƣời chị‖ Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- ―ngƣời em‖ ―ngƣời chị‖ ―ngƣời em‖ ―ngƣời chị‖(tôi) ―ngƣời em‖ ―ngƣời chị‖ ―ngƣời em‖(tôi) VA 25.2% 33.0% 36.7% 27.0% 23.3% 46.1% VB 21.0% 36.2% 37.6% 30.1% 17.4% 48.0% VC 23.2% 30.4% 34.0% 26.5% 12.3% 51.0% VD 22.8% 30.6% 41.5% 29.8% 12.9% 58.0% JJ 27.1% 28.1% 54.9% 20.4% 15.4% 58.9% VV 32.4% 33.6% 40.8% 26.4% 27.8% 48.7% Trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi kể ―ngƣời chị‖, nhóm ngƣời Nhật có tỉ lệ chủ ngữ là ―tôi‖ (nhân vật ―ngƣời chị‖) nhiều gấp đôi chủ ngữ là ―ngƣời em‖. Tuy nhiên, với ngƣời Việt học tiếng Nhật thì sự chệnh lệch của hai chủ ngữ nói trên không lớn. Trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi kể ―ngƣời em‖, theo Bảng 7, ngƣời Việt học tiếng Nhật trình độ càng cao thì tỉ lệ lấy nhân vật ―tôi‖ (nhân vật ―ngƣời em‖) làm chủ ngữ nhiều hơn chủ ngữ là ―ngƣời chị‖. Xu hƣớng lựa chọn chủ ngữ này gần với nhóm ngƣời Nhật. Tuy nhiên, nếu không xét theo toàn văn mạch mà xét theo đơn vịtình huống/ chuỗi huống thì giống nhƣ ngƣời Nhật, ngƣời Việt học tiếng Nhật có năng lực tiếng Nhậtcàng cao thì sự cố định chủ ngữ khi kể chuyện càng cao. Nghĩa là trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi thứ nhất, trình độ năng lực tiếng Nhật tỉ lệ thuận với tính cố định chủ ngữ. Trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi thứ ba thì kết quả nghiên cứu cho thấy sự cố định chủ ngữ cao hay thấp không liên Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 552 quan đến trình độ năng lực tiếng Nhật mà liên quan đến nội hàm tình huống nhiều hơn. Nghĩa là, có tình huống thì theo lối kể của ngƣời Việt dễ cố định chủ ngữ, có tình huống thì khó cố định chủ ngữ. Ví dụ nhƣ ở tình huống 1 dƣới đây, theo Bảng 6, trong khi nhóm ngƣời Nhật khi kể chuyện theo ngôi thứ nhất có sự cố định chủ ngữ cao thì ngƣợc lại, nhóm ngƣời học trình độ sơ cấp- trung cấp mặc dù có xuất hiệnmột số đối tƣợng đặt điểm nhìn cố định, thống nhất chủ ngữ khi kể nhƣng tỉ lệ thấp. Nhóm đối tƣợng có năng lực tiếng Nhậttrình độ cao cấp, khi kể chuyện theo ngôi thứ nhất thì chủ ngữ có khuynh hƣớng cố định cao hơn so với kết quả kể chuyện theo ngôi thứ ba, xu hƣớng này tƣơng đồng với nhóm ngƣời Nhật. Bảng 6: Sự cố định và thay đổi chủ ngữ trong tình huống 1(n=18) Nhóm Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- ngƣời chị Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- ngƣời em Cố định chủ ngữ Thay đổi chủ ngữ Cố định chủ ngữ Thay đổi chủ ngữ Cố định chủ ngữ Thay đổi chủ ngữ VA 0 18 1 17 3 15 VB 2 16 3 15 2 16 VC 0 18 4 14 7 11 VD 2 16 9 9 13 5 JJ 5 13 12 6 13 5 VV 0 18 3 15 2 16 Dƣới đây là ví dụ ngƣời học VC16. Quan sát ví dụ này sẽ thấy sự thay đổi trong lựa chọn chủ ngữ qua 3 lần kể chuyện theo chỉ thị ngôi kể khác nhau. Ví dụ 5: Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ nhất (ngƣời chị) Kể chuyện theo ngôi thứ nhất (ngƣời em) VC16 [ngƣời chị]お姉さんはき れいな人形を持っていま す。その時、[ngƣời em] 弟さんはソフトクリームを 持っています。[ngƣời chị+ ngƣời em]二人は換えてい ます。 [ngƣời chị]私は母に きれいな人形をもらい ました。その時、 [ngƣời chị]弟が持っ ているおいしそうアイ スクリームをとても食 べたいです。だから、 [ngƣời chị]私は換え ました。 [ngƣời em]私は母においし いアイスクリームを買っても らいましたから、その時、 [ngƣời em]姉が持っている 人形を遊びたいです。だか ら、[ngƣời em]私は換えま した。 Ở chuỗi tình huống 3-4-5, thì các nhóm ngƣời học có xu hƣớng cố định chủ ngữ ở nhân vật ―ngƣời mẹ‖ khi kể chuyện khá cao, kể cả lúc kể chuyện ở ngôi thứ ba lẫn khi kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 553 Bảng 9: Sự cố định và thay đổi chủ ngữ trong chuỗi tình huống 3-4-5(n=18) Nhóm Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- Ngƣời chị Kể chuyện theo ngôi thứ nhất- Ngƣời em Cố định chủ ngữ Thay đổi chủ ngữ Cố định chủ ngữ Thay đổi chủ ngữ Cố định chủ ngữ Thay đổi chủ ngữ VA 7 11 8 10 9 9 VB 9 9 7 11 10 8 VC 12 6 14 4 14 4 VD 17 1 17 1 15 3 JJ 14 4 12 6 10 8 VV 7 11 12 6 13 5 Ví dụ 6: Kể chuyện theo ngôi thứ ba Kể chuyện theo ngôi thứ nhất (ngƣời chị) Kể chuyện theo ngôi thứ nhất (ngƣời em) VC19 [ngƣời mẹ]弟さんの泣き 声を聞いたら、[ngƣời mẹ] お母さんが入りました。 [ngƣời em]弟さんは泣き ながら、[ngƣời em]お母さ んに走っていました。それ から、[ngƣời mẹ]お母さん はお姉さんに人形を直して あげました [ngƣời mẹ]弟の泣き 声を聞いたら、[ngƣời mẹ]母は入っていまし た。[ngƣời mẹ]そし て、母は私に人形を直 してくれました。 それから、[ngƣời mẹ] 母は私の泣き声を聞き ました。それから、 [ngƣời mẹ]母が入り ました。[ngƣời mẹ]母 は姉の人形を直ってあ げました。 Ngoài ra, so sánh Bảng 2, Bảng 3 và Bảng 4, có thể thấy sự thay đổi trong việc chọn đa đối tƣợng làm chủ ngữ nhƣ cách nói ―ngƣời chị và ngƣời em‖, ―hai chị em‖, ―mẹ và em trai‖, giảm đi đáng kể khi kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Đồng thời, so với kể chuyện theo ngôi thứ ba, khi kể chuyện theo ngôi thứ nhất,tỉ lệ tỉnh lƣợc chủ ngữ là ngôi thứ nhất tăng lên. 5.2. Thảo luận và kiến nghị Kết quả phân tích từ mục 4.1 và 4.2 đã làm rõ sự thay đổi lựa chọn nhận vật/đối tƣợng để làm chủ ngữ của ngƣời Việt học tiếng Nhật khi kể chuyện. Có nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến sự thay đổi lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện, ở đây, chúng tôi xin luận về 2 yếu tố ảnh hƣởng quan trọng dƣới đây: 5.2.1. Ảnh hưởng của ý thức lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn và ý thứccố địnhchủ ngữ khi kể chuyện Ý thức lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn và ý thức cố định chủ ngữ khi kể chuyện về bản chất bị ảnh hƣởng lớn bởi tiếng mẹ đẻ. Lê (2018) khi đối chiếu một số tác phẩm văn học Nhật Bản và bản dịch tiếng Việt tƣơng ứng đã đƣa ra kết luận: tiếng Nhật có xu hƣớng thống nhất điểm nhìn (nắm bắt sự vật, sự việc một cách chủ quan/主観的把握); ngƣợc lại tiếng Việt có xu hƣớng di chuyển điểm nhìn (nắm bắt sự vật, sự việc một cách khách quan/客観的把握). Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 554 Đó là lý do, trong trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi thứ ba, nhóm ngƣời Nhật có sự cố định chủ ngữ ở một số tình huống/ chuỗi tình huống, trong khi đó, nhóm ngƣời Việt- kể cả nhóm trình độ tiếng Nhật trung cấp, cao cấp thƣờng có xu hƣớng thay đổi chủ ngữ nhiều hơn. Nhƣ đã nói ở trên, tiếng Việt là ngôn ngữ có tính cố định chủ ngữ- thống nhất điểm nhìn ngôn ngữ không cao. Chính vì thế, dữ liệu từ nhóm đối tƣợng khảo sát ngƣời Việt (VV) khi kể chuyện bằng tiếng Việt cho thấy mức độ cố định chủ ngữ không đƣợc nâng cao đáng kể dù kể chuyện theo ngôi thứ ba hay ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, đối với ngƣời họcthì trƣờng hợp kể chuyện theo ngôi thứ nhất, tỉ lệ chủ ngữ ―tôi‖ tƣơng ứng với chỉ thị nghiên cứu tăng lên. Năng lực tiếng Nhật càng cao thì sự cố định chủ ngữ càng cao, càng gần với ngƣời Nhật hơn. Đặc biệt, với những tình huống có sự tƣơng tác qua- về giữa các nhân vật, thông thƣờng ngƣời Nhật sẽ sử dụng những ngữ chỉ điểm nhìn nhƣ ―bị động (受身表現)‖, ―cho- nhận (授受表 現)‖, ―di chuyển(移動表現)‖ để cố định điểm nhìn, giúp văn mạch dễ hiểu hơn nhất là đối với ngôn ngữ có hiện tƣợng tỉnh lƣợc chủ ngữ nhiều nhƣ tiếng Nhật. Đối tƣợng mới bắt đầu học tiếng Nhật hoặc chƣa nắm bắt, thuần thục đƣợc cách đặt điểm nhìn của tiếng Nhật thì thƣờng sử dụng―điểm nhìn thần thánh‖ (神の視点) hay nói cách khác dùng một camera (カメラアン グル) quét từ trên xuống, đặt điểm nhìn xa các nhân vật, đối tƣợngkhiến chủ ngữ dễ bị thay đổi. Nhƣ thế, với một ngôn ngữ có xu hƣớng kể chuyện một cách khách quan nhƣ tiếng Việt thì việc chỉ thị kể chuyện theo phƣơng thức tăng tính chủ quan, để ngƣời kể chuyện ―gần‖ với nhân vật hơn nhƣ cách kể ở ngôi thứ nhất đã cho kết quả tác động tích cực đến ý thức lựa chọn chủ ngữ thể hiện điểm nhìn của ngƣời Việt học tiếng Nhật. Đặt điểm nhìn vào đối tƣợng nào để chọn làm chủ ngữ cũng ít nhiều bị ảnh hƣởng bởi các yếu tố khác nhƣ yếu tố tâm lý hay giới tính,v.v... Ví dụ, thông thƣờng, nếu ngƣời kể là nữ thì thƣờng dễ đặt điểm nhìn vào nhân vật ―ngƣời chị‖- cùng giới tính với mình; nếu ngƣời kể cảm thấy có nhiều đồng cảm với ngƣời em thì có xu hƣớng đặt điểm nhìn vào nhân vật ―ngƣời em‖. Việc xác định sự lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện có bị ảnh hƣởng bởi những yếu tố trên không, cần đƣợc khảo sát sâu hơn. Trong giới hạn khảo sát này, kết quả cho thấy: đối tƣợng khảo sát nhất là ngƣời học, có xu hƣớng chọn nhân vật ―ngƣời em‖ làm chủ ngữ dễ hơn các nhân vật khác. Trong khảo sát này, nhân vật ―ngƣời em‖ có nhiều hành vi, hành động hơn so với các nhân vật khác. Phải chăng đó là một trong những lý do khiến ngƣời Việt học tiếng Nhật có xu hƣớng bị ―hút‖ điểm nhìn vào ―ngƣời em‖ nên thƣờng lấy nhân vật ―ngƣời em‖ làm chủ ngữ. Ngoài ra, trong tiếng Việt thì việc thay đổi chủ ngữ liên tục không phải là điều cấm kị trong văn phong, không phải bao giờ cũng khiến văn mạch bị đánh giá là khó hiểu. Ngƣợc lại, khi kể chuyện, nếu không có dụng ý nghệ thuật đặc biệt, việc lặp lại chủ ngữ (ví dụ nhƣ chủ ngữ ―tôi‖) quá nhiều lần, quá gần nhau có thể khiến đoạn văn trở nên nhàm chán. Ý thức về việc lặp lại của chủ ngữ và thói quen kể chuyện bằng tiếng mẹ đẻ có lẽ cũng ảnh hƣởng nhiều đến việc lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện của ngƣời Việt học tiếng Nhật. 5.2.1. Ảnh hưởng của việc chỉ thị ngôi kể chuyện đến sự lựa chọn chủ ngữ Kết quả khảo sát cho thấy: chỉ thị ngôi kể khác nhau thì sự lựa chọn đối tƣợng làm chủ ngữ khi kể chuyện cũng thay đổi. Đó là điều tất nhiên trong quy tắc ứng dụng ngôn ngữ. Theo Takemura (2010), luyện tập cho ngƣời học tiếng Nhật kể một câu chuyện tranh (漫画描写) Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 555 hay kể kinh nghiệm của bản thân trong cuộc sống hằng ngày (ナラティブ) theo ngôi thứ nhất là cách dễ luyện tập và có hiệu quả nhất. Bởi vì con ngƣời chúng ta dù đến từ quốc gia nào cũng có điểm chung là sẽ dễ dàng hơn khi kể một câu chuyện của bản thân, câu chuyện chủ quan nhìn từ hƣớng nhìn của mình và có khuynh hƣớng đặt điểm nhìn vào bản thân khi kể chuyện. Chính vì lý do đó, kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy: so với việc kể chuyện khách quan theo ngôi thứ ba, ngƣời Việt học tiếng Nhật có xu hƣớng ít thay đổi chủ ngữ hơn khi kể chuyện theo ngôi thứ nhất; năng lực ngôn ngữ càng cao thì sự khác biệt với ngƣời Nhật càng ít khi kể chuyện theo ngôi thứ nhất. Việc chỉ thị ngôi kể cũng khiến ngƣời học tập trung hơn vào đối tƣợng đƣợc đặt ngôi kể, nói cách khác là tập trung điểm nhìn vào nhân vật ―tôi‖. Đó cũng là lý do mà ở kết quả khảo sát kể chuyện theo ngôi kể thứ nhất cho thấy: việc lựa chọn đa đối tƣợng làm chủ ngữ nhƣ là ―hai chị em‖, ―ngƣời chị và ngƣời em‖ giảm xuống đáng kể hơn so với kể chuyện theo ngôi thứ ba. Vì thế, xác định xem sự chỉ thị điểm nhìn có thực sự có hiệu quả trong việc lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện của ngƣời Việt học tiếng Nhật hay không cần đƣợc khảo sát kỹ hơn không chỉ 1 lần mà cần nhiều lần, không chỉ sử dụng một tài liệu nghiên cứu là tranh mà cần đa dạng phƣơng thức nghiên cứu hơn, đồng thời cũng cần phân nhóm thực nghiệm để thấy rõ kết quả. Với những kết quả bƣớc đầu ở khảo sát này, chúng tôi nhận thấy: ngƣời học tiếng Nhật từ trình độ sơ cấp đến cao cấp có sự thay đổi sự lựa chọn chủ ngữ khi kể chuyện, phù hợp với ngôi kể;trình độ năng lực ngôn ngữ càng cao thì xu hƣớng lựa chọn chủ ngữ càng gần với nhóm ngƣời Nhật hơn. Vì thế, đối với ngƣời học tiếng Nhật, trƣớc khi luyện tập kể chuyện theo ngôi thứ ba, việc luyện tập cho ngƣời học kể chuyện bằng tranh vẽ theo chỉ thị ngôi kể thứ nhất sẽ phù hợp cho việc xây dựng ý thức về cố định chủ ngữ - điểm nhìn thƣờng có trong tiếng Nhật. Ở Việt Nam, hình thức kể chuyện theo ngôi thứ nhất này là hình thức luyện tập khá gần gũi với ngƣời học, vì thƣờng đƣợc đƣa vào giảng dạy và luyện tập trong chƣơng trìnhmôn Tiếng Việttừ bậc tiểu học. Do đó, chúng tôi hy vọng, việc luyện tập kể chuyện theo ngôi thứ nhất sẽ giúp ngƣời học xây dựng đƣợc ý thức cố định điểm nhìn của tiếng Nhật, nhờ đó khi kể chuyện theo ngôi thứ ba, tính cố định chủ ngữ- điểm nhìn trong khi kể chuyện sẽ cao hơn, tiếng Nhật sẽ tự nhiên hơn. Việc luyện tập kể chuyện theo ngôi thứ nhất trƣớc, sau đó kể chuyện theo ngôi thứ ba nên bắt đầu từ trình độ sơ cấp và lặp đi lặp lại nhiều lần để đẩy nhanh quá trình hình thành ý thức về điểm nhìn của tiếng Nhật đối với ngƣời học. Ở ngƣời học trình độ trung cấp, cao cấp ở Việt Nam cũng nhƣ ngƣời học có kinh nghiệm thực hành tiếng ở Nhật Bản nên cho luyện tập không chỉ bằng tranh vẽ mà cònmở rộng hơn bằng hình thức kể những câu chuyện, trải nghiệm cá nhân; hoặc nâng cao lên bằng những đề tài mang tính nghị luận. Việc luyện tập kể chuyện, nêu ý kiến cá nhân bằng tiếng Nhật và việc chú trọng chỉnh sửa lỗi sai điểm nhìn của giáo viên có vai trò rất quan trọng trong việc lĩnh hội điểm nhìn, thẩm thấu lối nói tự nhiên trong tiếng Nhật của ngƣời học. 6. Kết luận Với phƣơng pháp so sánh sự lựa chọn chủ ngữ của các nhóm ngƣời Việt học tiếng Nhật ở cấp độ năng lực khác nhau khi kể chuyện theo ngôi thứ ba và ngôi thứ nhất, chúng tôi nhận Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 556 thấy xu hƣớng sau:so với kể chuyện theo ngôi thứ ba thì khi kể chuyện theo ngôi kể thứ nhất, sự lựa chọn chủ ngữ là nhân vật đƣợc chỉ thị điểm nhìn (―tôi‖) của ngƣời Việt học tiếng Nhật tăng lên, tính cố định chủ ngữ cao hơn; năng lực tiếng Nhật càng cao thì sự cố định chủ ngữ càng cao. Có thể thấy việc chỉ thị kể chuyện theo ngôi thứ nhất có những tác động tích cực đến sự lựa chọn chủ ngữ của ngƣời học nên cần đƣợc xem xét để sử dụng nhƣ là một trong những phƣơng pháp để rèn luyện cách đặt điểm nhìn khi kể chuyện của ngƣời Việt học tiếng Nhật. Tài liệu tham khảo Diệp Quang Ban (2005). Ngữ pháp tếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Kim Kyonju (2001). 談話構成における母語話者と学習者の視点-日韓両言語における主語と 動詞の用い方を中心に-.日本語教育, 109, 60-90. Kuno Susumi (1978). 談話の文法. Tokyo: 大修館書店. Le Cam Nhung (2018). ベトナム人日本語学習者の産出文章に見られる視点の表し方及びその 指導法:学習者の〈気づき〉を重視する指導法を中心に. Tokyo: ココ出版. Takemuwa Miwa (2010). 日本語母語話者と中国語日本語学習者の談話に見られる視座-パー ソナル・ナラティブと漫画描写の比較-.広島大学院教育学研究科紀要, 59, 289-298. Tashiro Hitomi (1995). 中上級日本語学習者の文章表現の問題点-不自然さ・わかりにくさの 原因をさぐる-.日本語教育, 85, 25-37. RESEARCH ON THE INCLINATION OF USING "SUBJECT EXPRESSING VIEWPOINT" OF VIETNAMESE AS JAPANESE LEARNERS WHEN APPLYING DIFFERENT SUBJECTS TO TELL STORIES Abstract This study aims to analyze the tendency of using ―subject expressing point of view‖ when speaking Japanese between Japanese and Vietnamese who are Japanese learners. This investigation found that, Vietnamese tend to apply first subject "I" relatively more than third subject when they tell stories. And, the higher level of Japanese they are, the more constantly they use first subject. This finding is important to search for appropriate practice methods to build up their skills of choosing subjects which are close to native speakers. Keywords subject, viewpoint, storytelling
File đính kèm:
- nghien_cuu_ve_su_lua_chon_chu_ngu_the_hien_diem_nhin_cua_ngu.pdf