Nâng cao kỹ năng giao tiếp cho người học tiếng Anh thông qua việc tìm hiểu chủ đề kiêng kỵ của người Mỹ
Ngôn ngữ cấm kỵ là những chủ đề không nên đề cập trong quá trình giao tiếp đối với bất
cứ ngƣời nào mà ta tiếp xúc. Thực trạng hiện nay, các ứng xử trong giao tiếp dần có tính
chất toàn cầu hóa, tuy nhiên nét đặc trƣng của phong cách giao tiếp ở từng quốc gia vẫn
còn là một điều cần quan tâm. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày nay, ngƣời Việt Nam
ngày càng có nhiều cơ hội giao tiếp với ngƣời nƣớc ngoài, đặc biệt là với ngƣời Mỹ. Để
có thể giao tiếp thành công, chúng ta cần phải tránh đề cập những chủ đề cấm kỵ. Trong
phạm vi bài viết này, chúng tôi nêu một số chủ đề cần tránh đề cập khi giao tiếp với
ngƣời Mỹ nhƣ tuổi, chiều cao và cân nặng, xu hƣớng tình dục, tránh trách móc ngƣời
khác nhằm giúp ngƣời học tiếng Anh nâng cao nhận thức về những chủ đề cấm kỵ trong
giao tiếp với ngƣời Mỹ, từ đó đạt đƣợc hiệu quả cao trong hoạt động giao lƣu, làm ăn với
các đối tác phƣơng Tây nói chung.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao kỹ năng giao tiếp cho người học tiếng Anh thông qua việc tìm hiểu chủ đề kiêng kỵ của người Mỹ
t định đƣợc coi là chiến thắng lịch sử với các nhà hoạt động vì quyền lợi của ngƣời đồng tính, sau quá trình đấu tranh không mệt mỏi nhiều thập kỷ, với rất nhiều rào cản pháp lý và thành kiến xã hội. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 128 Thẩm phán Anthony M. Kennedy, thuộc toà án tối cao Mỹ, cho biết bắt đầu từ ngày 26/6/2018, các cặp đồng tính nam và nữ trên toàn nƣớc Mỹ đã có thể bình đẳng đăng ký kết hôn, đƣợc bảo vệ bởi luật hôn nhân và những điều luật liên quan nhƣ về con cái, phân chia tài sản sau ly hôn. Họ đƣợc hƣởng mọi quyền lợi cũng nhƣ thực thi mọi nghĩa vụ nhƣ một cặp vợ chồng dị tính. Tổng thống Mỹ Barack Obama phát biểu tại Nhà Trắng rằng đó là thắng lợi của nƣớc Mỹ. Trong khi đó, Tổng Thƣ ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon nhận định rằng luật hôn nhân đồng giới là ―một bƣớc tiến vĩ đại của quyền con ngƣời‖. Nhƣ vậy, xã hội Mỹ đã tôn trọng tự do cá nhân trong việc kết hôn kể cả hôn nhân đồng giới. Tuy nhiên, không phải mọi ngƣời dân Mỹ đều đồng tình, đặc biệt các nhà hoạt động tôn giáo. Điều này đồng nghĩa với việc có không ít ngƣời vẫn kỳ thị và có cái nhìn dò xét đối với những ngƣời đồng tính (gay/ lesbian). Do vậy, khi giao tiếp với ngƣời Mỹ, chúng ta không nên tùy tiện hỏi khuynh hƣớng tình dục của họ, chẳng hạn: ―Are you gay / lesbian‖ (Bạn là người đồng tính nam / nữ phải không), hay ―Do you get homosexual relationships‖ (Bạn có thiên hướng quan hệ đồng giới phải không). Những câu hỏi ấy đƣợc coi là khiếm nhã, xúc phạm đến quyền cá nhân của ngƣời khác nên không đƣợc hoan nghênh. Liên quan đến văn hóa tình dục chúng ta cần lƣu ý tại Mỹ luôn có hiện tƣợng ―tình một đêm‖ (one night stand) hoặc ―yêu nhiều ngƣời‖ (open relationship), sống thử (co- habitation) tồn tại trong xã hội. Việc các bạn sinh viên đại học Mỹ trải qua tình một đêm hoặc có mối quan hệ với nhiều ngƣời một lúc là một hiện trạng phổ biến ở Mỹ. Nếu bạn có quen với ngƣời bạn nào đó có những mối quan hệ thế này thì cũng đừng vội vàng đánh giá hay phán xét họ vì văn hóa yêu đƣơng của Mỹ là nhƣ vậy. Ngƣời Mỹ quan niệm rằng miễn hai ngƣời có thống nhất rõ ràng về tính chất của mối quan hệ thì không ai có quyền trách đối phƣơng về việc không chung thủy hay thiếu trách nhiệm. Do vậy, tránh đề cập và phê phán văn hóa ấy dẫu rằng văn hóa ấy có phần khác biệt với văn hóa hôn nhân và gia đình ở Việt Nam. Kể cũng cần phải nói thêm là nếu ai đó tiếp cận bạn chỉ vì muốn có tình một đêm thì bạn đừng mong họ có ý định quen mình lâu dài. Bạn hoàn toàn có thể từ chối lời đề nghị nhƣng nếu đồng ý thì phải chấp nhận việc sau một đêm cả hai sẽ không là gì của nhau. Còn nếu bạn chịu quen với một ngƣời tự xác nhận bản thân đang trong tình trạng ―open relationship‖ thì phải chấp nhận họ có qua lại với những đối tƣợng khác ngoài mình. Tuy nhiên, bạn nên nhớ mình không nhất thiết phải cố gắng hòa nhập với văn hóa hẹn hò kiểu Mỹ này nếu bản thân thật sự không thích. Khi bạn thấy khó chịu hoặc không thoải mái với các kiểu mối quan hệ này thì hãy mạnh dạn từ chối. Quan trọng nhất là bạn luôn phải hỏi rõ tính chất mối quan hệ của cả hai để tránh có những ảo tƣởng sai lệch. 3.4. Tránh phê phán trực diện ngƣời khác Có thể nói trong quá trình giao tiếp, biết khen ngợi và cảm ơn những ngƣời xung quanh một cách chân thành chính là chiếc đũa thần tạo nên nên tình thân ái và nguồn động viên tinh thần to lớn. Điều đó sẽ tạo ra niềm vui cho ngƣời đối diện vì họ nghĩ rằng bản thân mình đƣợc quan tâm, công nhận và yêu thƣơng. Ngƣời Mỹ không thích bị phê phán thẳng thừng và trực diện, kể cả khi thành tích của họ ở dƣới mức trung bình (Trần Kiết Hùng & Phạm Thế Châu, 2007). Bạn hãy diễn tả theo cách để họ hiểu là họ đã làm hết khả năng của mình, hay khen ngợi những tiến bộ và thành tích nhỏ, hãy tìm cách che đậy những nhận xét mang tính phê phán của bạn một cách khéo léo, chẳng hạn nhƣ: ―Thật tuyệt, nhƣng lần sau chắc chắn chúng ta còn tuyệt hơn‖. Do vậy, khi giao tiếp với ngƣời Mỹ, chúng ta cần phải kiểm soát phản ứng của bản thân, tránh cáu gắt và nặng lời trách móc ngƣời khác đại loại nhƣ: ―I'm fed up with you. I could really do without Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 129 you‖ (Tôi chán ngấy với bạn. Tôi thực sự có thể làm mà không cần đến bạn),―I can't believe he was talking behind my back‖ (Tôi không thể tin được anh ta đã nói xấu sau lưng tôi), ―I'm really disappointed in you. I didn't know you could stoop to that level‖ (Tôi thực sự thất vọng về bạn. Tôi không nghĩ bạn có tệ đến mức đó), ―Don‘t poke your nose into my business‖ or ―It‘s none of your business‖ (Đừng chĩa miệng vào chuyện của tôi) Ngƣời Mỹ vốn coi trọng sự tự do cá nhân và luôn quan niệm rằng ―Hãy là chính mình‖. Ngƣời ta không thích việc một ai đó cố tình thay đổi quan điểm hoặc áp đặt giá trị của họ bằng cách phê phán lối sống của họ. Sự phê phán nếu có phải đƣợc thực hiện tinh tế, lịch sự. Chẳng hạn, nếu bạn đến nhà hàng gọi món và ngƣời phục vụ quên mang đồ uống cho bạn thay vì mình nói: ―You didn‘t bring my drink‖ (Bạn đã không mang đồ uống cho tôi) là cách nói quá thẳng thừng dễ làm cho ngƣời nghe cảm thấy nhƣ thể họ bị phê bình. Trong trƣờng hợp này chúng ta có thể có có những cách nói khác tinh tế và nhẹ nhàng hơn nhƣ: ―I think you may have forgotten to bring my drink‖ (Tôi nghĩ có lẽ bạn đã quên mang thức uống cho tôi). Tƣơng tự nhƣ vậy, khi đi mua hàng, chúng ta không nên than phiền một cách thẳng thắn nhƣ: ―Why are there some stains in the shirts‖ (Tại sao cái áo này lại có một vài vết bẩn vậy‖. Khi nghe những lời than phiền nhƣ vậy sẽ làm cho ngƣời nghe cảm thấy phản cảm. Trong trƣờng hợp này chúng ta có thể nói theo cách lịch sự hơn: ―I‘m sorry to have to say this, but I noticed some stains in my shirts‖ (Tôi rất lấy làm tiếc khi nói điều này đó là quần áo của tôi bị hỏng vài chỗ). Khi ở trong phòng quá lạnh, thay vì nói với những ngƣời phục vụ một cách thẳng thừng theo kiểu: ―My room is freezing‖ (căn phòng lạnh quá), chúng ta nên nói với họ cách lịch sự hơn: ―I‘m sorry to bother you, but my hotel room is a little cold‖ (Tôi rất tiếc vì phải làm phiền bạn nhưng vì phòng của tôi hơi lạnh một chút). Khi đi thuê căn hộ và phát hiện có chuột trong căn hộ, chúng ta không nên than phiền ngƣời chủ nhà theo kiểu: ―I have found some mice running in my apartment‖ (Tôi thấy chuột chạy trong phòng‖, thay vào đó chúng ta nên có những lời lẽ nhẹ nhàng hơn: ―There seems to be a mistake on my apartment. There are some mice in it‖ (Dường như có chút vấn đề trong căn hộ của tôi. Có mấy con chuột trong phòng) Có thể nói giao tiếp ứng xử tế nhị vừa có thể giải quyết đƣợc những khúc mắc trong cuộc sống, vừa có thể thiết lập đƣợc các mối quan hệ tốt với những ngƣời xung quanh. Do vậy, trong quá trình giao tiếp, thay vì trực tiếp phê phán ngƣời khác, chúng ta cần chú ý dùng những cách biểu đạt lịch sự nhƣ ―excuse me‖ (xin làm phiền), ―please‖ (xin vui lòng), ―thank you‖ (cám ơn) trong giao tiếp. 4. Thảo luận và đề xuất Do khác biệt về văn hóa dẫn đến những khác biệt về phong tục tập quán. Chúng ta phải lƣu tâm điều này trong quá trình giao tiếp. Có những chủ đề khi đề cập trong nền văn hóa Việt Nam đƣợc coi là bình thƣờng nhƣng trong nền văn hóa Mỹ lại là chủ đề cấm kỵ. Có những vấn đề đƣợc coi là tế nhị trong nền văn hóa Mỹ, chúng ta vẫn có thể đề cập bằng cách gián tiếp thay vì trực tiếp hỏi ngƣời đối diện. chẳng hạn, khi hỏi lƣơng hay thu nhập. Đây là vấn đề không nên đề cập trực tiếp trong quá trình giao tiếp với ngƣời đối diện, nhƣng chúng ta có thể đề cập một cách gián tiếp, một cách chung chung: ―Do you know how much an IT engineer earns‖ hoặc ―Do you know the monthly salary of an IT engineer in your company‖ (Bạn có biết một kỹ sư Công nghệ thông tin lương tháng là bao nhiêu không). Chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ nền văn hóa của các nƣớc khác để đạt đƣợc hiệu quả cao trong giao tiếp. Những chủ đề mà chúng ta nên hỏi khi giao lƣu với ngƣời Mỹ là gia đình, thời tiết, vật sở hữu, thể thao... Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 130 4.1. Gia đình (Family) Chúng ta có thể hỏi những thông tin chung về con cái, công việc của vợ hoặc chồng ngƣời đối diện chẳng hạn nhƣ: ―How many children do you have‖ (Chị có mấy đứa rồi), ―What are their names‖(Tên tụi nó là gì), ―How old are they‖ (Tụi nó mấy tuổi rồi), ―Are they in school‖ (Mấy đứa nó vẫn đang học chứ), ―What does your husband/wife do‖ (Vợ/ chồng chị làm nghề gì thế), ―Where does your husband/wife work‖ (Vợ/ chồng chị làm ở đâu)Những câu hỏi trên rõ ràng không quá tế nhị nên ngƣời Mỹ sẽ vui vẻ cung cấp thông tin cho chúng ta mà không cảm thấy miễn cƣỡng hay gƣợng ép. 4.2. Thời tiết (Weather) Nếu lần đầu bạn gặp ngƣời Mỹ, để an toàn trong giao tiếp, chúng ta nên nói chuyện về thời tiết. Những câu nói đại loại nhƣ: ―Nice weather we're having. I hope it stays this way‖ (Chúng ta đang có thời tiết đẹp đấy. Mình hi vọng trời cứ như thế này), ―Beautiful day, isn't it‖ (Trời đẹp thật, phải không), ―What awful weather we're having. When's it going to end‖ (Thời tiết thật tệ. Khi nào thì nó mới hết cơ chứ), ―What season is it in your country now‖ (Hiện tại đang là mùa gì ở nƣớc bạn), ―What is your favorite season‖ (Bạn yêu thích mùa nào)Những chủ đề ―vô thƣởng vô phạt này‖ đƣợc ngƣời Mỹ thích dùng trong những cuộc giao tiếp mang tính chất xã giao. 4.3. Vấn đề đầu tƣ Những vấn đề liên quan về đầu tƣ (investment), chứng khoán (stock) không đƣợc coi là nhạy cảm. Nam giới thì thích bàn về vấn đề này hơn là phụ nữ. Chúng ta có thể hỏi ngƣời Mỹ những câu hỏi đại loại: ―In your opinion, which channels do Americans like to invest in‖ (Theo bạn, ở nước Mỹ người ta thường thích đầu tư vào đâu), ―Why do not people deposit money in the US‖ (Tại sao ở Mỹ người ta thường không gửi tiền vào ngân hàng) hay ―If we want to invest in the stock market, where do we start‖ (Nếu muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán, chúng ta phải bắt đầu từ đâu). Những câu hỏi này thuần túy mang đến cho thấy chúng ta thêm kiến thức về những hoạt động đầu tƣ ở Mỹ chứ hoàn toàn không có ý tò mò về tình trạng tài chính của ngƣời đối diện. 4.4. Vật sở hữu (Possessions) Khi giao tiếp với ngƣời Mỹ, đặc biệt là nam giới, chúng ta có thể hỏi họ về những thứ mà họ đã có hoặc là họ muốn sở hữu nhƣ máy tính, thiết bị đài, điện tử, ti vi, xe ô tô, máy ảnh. Những câu hỏi đại loại nhƣ: ―Which car do you like most‖ (Bạn thích loại xe hơi nào nhất), ―What kind of camera do you like most‖ (Bạn thích loại máy ảnh nào nhất), ―Is this camera equipped with a self-timer‖ (máy ảnh này có chức năng chỉnh giờ không)Những câu hỏi nhƣ thế không làm ngƣời nghe cảm thấy phản cảm. 4.5. Thể thao (Sports) Thể thao đƣợc xem là một trong những chủ đề an toàn nhất trong giao tiếp. Những môn thể thao đƣợc ƣa chuộng ở Mỹ nhƣ: Bóng chày, bóng đá, bóng rổ. Do vậy, bạn có thể thoải mái hỏi ngƣời Mỹ những câu hỏi đại loại nhƣ: ―What kind of sports do you like‖ (Bạn thích môn thể thao nào), ―Which baseball player do you like‖ (Bạn thích vận động viên bóng chày nào), ―Why do Americans like baseball?‖ (Tại sao người Mỹ thích bóng chày). 5. Kết luận Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của con ngƣời, đƣợc hình thành cùng với sự phát triển của khả năng tƣ duy con ngƣời. Con ngƣời sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp xã hội và giữa các cá nhân. Từ khi hình thành, ngôn ngữ không chỉ là một công cụ, nhƣng còn là một phần của Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 131 văn hóa. Thông thạo tiếng Anh chỉ là điều kiện cần để làm nên thành công trong giao tiếp. Để có thể giao tiếp thành công, chúng ta phải am hiểu văn hóa của ngƣời Mỹ. Vì văn hóa là yếu tố liên quan mật thiết đến một ngôn ngữ. Sự khác biệt về văn hóa có thể dẫn đến sự hiểu nhầm, thậm chí là điều cấm kỵ trong giao tiếp. Khi giao tiếp tiếng Anh với ngƣời nƣớc ngoài, chúng ta phải thật lƣu ý và tránh các vấn đề đƣợc cho là cấm kỵ. Dù trong công việc hay cuộc sống, giao tiếp vẫn luôn đóng vai trò rất quan trọng. Bất kỳ một môi trƣờng nào và ở thời điểm nào, việc nắm đƣợc cách ứng xử đúng đắn và thấu hiểu ngƣời đối diện đều khiến chúng ta dễ dàng kết nối với ngƣời khác trong quá trình giao tiếp. Vì lý do này mà một sai lầm nhỏ cũng sẽ kéo theo những rắc rối khác nhau. Mặt khác, chúng ta không nên bỏ qua một yếu tố rất quan trọng trong giao tiếp đó là sự chân thành. Chính yếu tố này tạo nên sự thành công trong quá trình giao tiếp bất cứ nơi đâu và đối với bất cứ con ngƣời nào. Tài liệu tham khảo Bates, D.C.F. (1990). Cultural Anthropology. New York: Mc Graw – Hill. Bell, R.T. (1981). An Introduction to Applied Linguistic: Approaches and Methods in Language Teaching. London: Batsford Academic. Brown, H.D.V. (1986). Learning a Second Culture in Culture bound. London: Cambridge University Press. Nguyễn Đức Dân (2005). Từ cấm kị và uyển ngữ trong một số vấn đề về phương ngữ xã hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Emmit, M. & Pollock, J. (1990). Language and Learning. London: Oxford University Press. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia. Trần Kiết Hùng & Phạm Thế Châu (2007). Xã hội và nền văn hóa Mỹ. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin. Trƣơng Oánh (2004). So sánh và phân tích văn hóa cấm kỵ của người Trung Quốc và người Mỹ. Hà Nội: Nhà xuất bản Nghiên cứu Giáo dục. Wardhaugh, R. (1989). An Introduction to Socio-linguistics. London: Basil Blackwell. IMPROVING COMMUNICATION SKILLS FOR ENGLISH - LEARNERS THROUGH STUDYING TABOO TOPICS OF AMERICANS Abstract Taboo language is the topic that should not be used in our communication with anyone we come into contact with. In the current situation, the communication behavior is gradually globalized, but the characteristics of the communication style in each country are still something to be concerned about. In today's international integration trend, Vietnamese people have more and more opportunities to communicate with foreigners, especially with Americans. To be able to communicate successfully, we need to avoid talking about taboo topics. In the scope of this article, we mention some sensitive topics we should avoid when communicating with Americans such as age, height and weight, sexual orientation, avoid blaming others to help English learners improve their awareness Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 132 of taboo topics in communicating with Americans, thereby achieving high efficiency in exchanges and business with the partners in general. Keywords taboo word, communication, culture
File đính kèm:
- nang_cao_ky_nang_giao_tiep_cho_nguoi_hoc_tieng_anh_thong_qua.pdf