Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên các trường chuyên nghiệp khu vực Tây Bắc hiện nay
Tóm tắt: Giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, sinh viên là một nội dung vô cùng quan trọng trong nhà trường nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện. Nhà trường không chỉ dạy “Chữ” mà quan trọng nhất là dạy “Người”, dạy học sinh thành những con người có nhân cách tốt. Bài báo này xác định rõ nội dung, hình thức, lực lượng thực hiện công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên; đánh giá mặt tích cực và hạn chế của công tác này để rút ra bài học định hướng công tác giáo dục đạo đức lối sống cho sinh viên các trường chuyên nghiệp trên địa bàn khu vực Tây Bắc
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên các trường chuyên nghiệp khu vực Tây Bắc hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên các trường chuyên nghiệp khu vực Tây Bắc hiện nay
bị cho HSSV những kiến thức về các giá trị, các chuẩn mực đạo đức và lối sống của xã hội; - Bồi dưỡng cho HSSV thái độ đúng đắn về ĐĐLS; - Hình thành và phát triển ở HSSV các hành vi và thói quen. Sự phối hợp tham gia của chính quyền địa phương, công an, đoàn thể xã hội là rất quan trọng cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Vai trò của công an, chính quyền địa phương được đánh giá cao trong việc đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là ở khu vực quanh trường, nơi cư trú của người học. Một số kết quả đạt được trong công tác giáo dục ĐĐLS cho SV khu vực Tây Bắc Hầu hết HSSV được tiếp cận và hiểu về đường lối, chính sách, pháp luật, nội quy, quy định có liên quan đến công tác rèn luyện, giáo dục ĐĐLS thông qua truyền đạt tập trung hoặc môn học, hoạt động ngoại khóa, tài liệu hướng dẫn hàng năm. Tất cả các trường đều tổ chức Tuần sinh hoạt công dân – HSSV, trong đó các nội dung này đều được cập nhật kịp thời. Đồng thời qua hệ thống thông tin của trường, khoa, lớp, giáo viên, giảng viên, cán bộ phòng Công tác HSSV, các phòng ban, các thông tin được cụ thể hóa và hướng dẫn cụ thể hơn. Hệ thống thiết chế văn hóa, thư viện, hỗ trợ HSSV trong học tập, vui chơi, sinh hoạt hàng ngày tốt hơn. Nhiều câu lạc bộ hoạt động có hiệu quả hơn, thu hút đông HSSV tham gia. Một số chương trình giáo dục kĩ năng sống, kĩ năng mềm, giá trị sống được đưa vào ở nhiều trường được sự hưởng ứng của số đông người học. Hoạt động ngoại khóa phong phú, đa dạng hơn như tham quan bảo tàng, di tích, hội thảo chuyên đề, hội thi, hội diễn văn hóa, văn nghệ, thể thao, hoạt động câu lạc bộ đã thu hút sự tham gia của HSSV ngày càng đông và tự giác hơn. Kết quả đánh giá về rèn luyện thông qua thực hiện Quy chế rèn luyện có kết quả ngày càng cao hơn. Phần lớn HSSV đạt kết quả rèn luyện khá, tốt, rất ít người có kết quả trung bình. Tỉ lệ rèn luyện tốt chiếm đa số, không có người đạt mức trung bình. Chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức lối sống HSSV có thể thấy được qua biểu hiện của người học. Nhận thức và sự tham gia của HSSV trong các sự kiện chính trị, truyền thống của đất nước, địa phương, nhà trường ngày càng có tỉ lệ cao với hiệu quả tốt hơn. HSSV biết tự hào về truyền thống và danh dự nhà trường, biết kính trọng thầy cô giáo, đoàn kết với bạn bè, ứng xử có văn hóa, có ý thức tổ chức kỉ luật (tỉ lệ vi phạm kỉ luật, pháp luật giảm cả về vụ việc và mức độ). Người học tích cực và chủ động, tự giác hơn trong học tập, rèn luyện. Ngay cả trong tình huống bị kẻ xấu kích động, HSSV vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, làm theo sự chỉ đạo của lãnh đạo trường, không để xảy ra các vụ việc lớn đáng tiếc nào xảy ra. Sự ổn định chính trị và sự tích cực tham gia của HSSV là kết quả cao nhất của công tác giáo dục ĐĐLS HSSV. 24 Hệ thống văn bản quy định về công tác HSSV đã được hoàn thiện cơ bản đáp ứng nhu cầu của các nhà trường. Đa số các trường đã cụ thể hóa các văn bản của Bộ, ngành, địa phương để thực hiện cho trường mình. Công tác giáo dục phẩm chất, ĐĐLS được quy định thành văn bản quy phạm pháp luật từ năm 2007 [4]. Trước đó, quy chế rèn luyện quy định nội dung cơ bản trong đánh giá phẩm chất, ĐĐLS HSSV các trường đào tạo được ban hành. Dựa trên quy định cơ bản của Quy chế này, các trường cụ thể hóa việc đánh giá HSSV nhà trường. Qua hơn 10 năm thực hiện, tuy cần phải cập nhật thêm nhưng về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu đánh giá ĐĐLS của người học. Vai trò của Đoàn Thanh niên trường trong việc định hướng giá trị sống, giáo dục ĐĐLS được thể hiện ngày càng rõ qua các phong trào tình nguyện, hoạt động văn hóa, thể thao, hoạt động xã hội, vì cộng đồng, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ khó khăn, khuyến khích vượt khó. Sự phối hợp của Đoàn Thanh niên, Hội SV với phòng công tác HSSV đã trở thành nề nếp và có hiệu quả tốt hơn ở nhiều trường. Việc triển khai thực hiện các cuộc vận động, phong trào đã có hiệu quả tốt và thiết thực hơn. Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có tác động đến toàn bộ hệ thống chính trị trong giáo dục ĐĐLS cho HSSV. Ở nhiều trường đã tạo ra sự phối hợp đồng bộ của cấp ủy, Ban Giám hiệu, các đoàn thể khác, cán bộ, giáo viên, nhân viên và HSSV. Một số trường có xây dựng được quy định về chuẩn mực ĐĐLS của HSSV nhà trường. Hàng năm, trên cơ sở hướng dẫn của Bộ GDĐT, các Bộ ngành chủ quản, địa phương, tất cả các nhà trường đã tổ chức Tuần sinh hoạt công dân - HSSV cho toàn bộ HSSV nhà trường. Hoạt động này là bước khởi đầu cho ổn định nề nếp, trật tự kỉ cương và hoạt động của nhà trường hàng năm. Một số hạn chế trong công tác giáo dục ĐĐLS cho SV khu vực Tây Bắc Phương pháp và hình thức giáo dục ĐĐLS cho HSSV ít đổi mới, ít hấp dẫn, hứng thú. Điểm khác biệt căn bản giữa giáo dục đại học so với giáo dục phổ thông là ở chỗ phát huy tinh thần chủ động, tự giác, tự học, tự nghiên cứu, tự vận dụng của người học. Giảng viên đại học, cao đẳng chỉ hướng dẫn và định hướng, hỗ trợ học tập và nghiên cứu cho HSSV. Tuy nhiên, một số giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm, chưa làm tốt được việc định hướng và chưa có kinh nghiệm trong giáo dục ĐĐLS, chưa tạo ra sự hấp dẫn trong giảng dạy. Có một bộ phận GV chưa quan tâm đến giáo dục ĐĐLS cho HSSV, chủ yếu là chú trọng về chuyên môn, môn học. Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ tổ chức giáo dục ĐĐLS cho HSSV trong các trường đào tạo chưa có nhiều, chưa được đầu tư xây dựng nên nhiều trường lúng túng trong việc tự nâng cao chuyên môn cho cán bộ, giáo viên. Tổ chức rèn luyện kĩ sống, kĩ năng mềm có tác dụng rất tốt trong việc chuyển tải nội dung giáo dục ĐĐLS thành hành vi và nếp sống của người học. Kĩ năng mềm tuy có được một số 25 trường đưa vào chương trình hoạt động, nhưng chưa thực sự đi vào chiều sâu, thiếu nhiều điều kiện triển khai. Sự phối hợp trong giáo dục đạo đức lối sống giữa nhà trường và gia đình, địa phương tuy có được cải thiện nhưng nhìn chung còn chưa sâu sát, chưa chặt chẽ và chưa trở thành nề nếp có hiệu quả. Những biểu hiện tư tưởng chính trị, ĐĐLS của HSSV ở ngoại trú là rất khó có thông tin và khó triển khai tổ chức giáo dục. Công tác tư vấn tâm lí, hướng nghiệp bước đầu thực hiện nhưng còn chưa đáp ứng được nhu cầu người học và còn thiếu rất nhiều về điều kiện và cơ chế hoạt động. Đội ngũ cán bộ công tác HSSV, cán bộ Đoàn, Hội còn chưa được đào tạo cơ bản, chưa được bồi dưỡng theo chương trình chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên. Nhiều người có năng lực và tâm huyết được bố trí vào công tác giáo dục ĐĐLS đã tích lũy dần kinh nghiệm và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tuy nhiên, có một số người vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công tác do cả lí do năng lực, chuyên môn và tâm lí. Nếu có chương trình đào tạo nghiệp vụ về công tác này thì sẽ hỗ trợ cho công việc tốt hơn. Đoàn Thanh niên, Hội SV có tác dụng lớn trong giáo dục ĐĐLS cho HSSV trong các nhà trường. Tuy nhiên ở nhiều trường, Đoàn Thanh niên, Hội SV chưa cụ thể hóa nội dung giáo dục phù hợp, phương pháp giáo dục còn chưa hấp dẫn, tỉ lệ tập hợp HSSV thấp, nhiều hoạt động chỉ đến với người tích cực, chưa đến với nhóm HSSV đặc thù. Một số phong trào còn hình thức, thiếu hiệu quả, nội dung chưa thực sụ phù hợp. Công tác tổng kết, đánh giá, nhân rộng điển hình tốt còn lúng túng. Nguyên nhân của những hạn chế Do sự thiếu hiểu biết về kĩ năng sống, pháp luật, chuẩn mực xã hội. Cùng với đó là do ý thức của họ chưa tốt, còn đua đòi, lai căng, quá thực dụng, bị ảnh hưởng từ tiêu cực xã hội và qua phim ảnh, sách báo. Nguyên nhân tiếp theo là do phương pháp giáo dục chưa hấp dẫn, còn thiếu CSVC, cách thi cử, kiểm tra, đánh giá chỉ chú trọng đến các môn chuyên môn mà chưa quan tâm đến ĐĐLS.. Một số giảng viên, giáo viên chỉ quan tâm đến dạy chuyên môn, dạy “chữ” mà chưa chưa quan tâm đến dạy “người”, dạy kĩ năng bổ trợ cho chuyên môn và cho cuộc sống. Một nguyên nhân nữa là do còn thiếu sân chơi và cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho công tác giáo dục ĐĐLS HSSV. Sự phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường trong công tác này còn lỏng lẻo, chưa có cơ chế phù hợp ở rất nhiều nơi, nhất là chưa có chế tài hữu hiệu thực hiện. Mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình người học ở đại học, cao đẳng, TCCN là rất khác so với phổ thông. Hầu hết các trường không có mối liên hệ trực tiếp, thường xuyên với phụ huynh HSSV. Phần vì gia đình ở xa, đặc biệt là do người học đã đủ tuổi và chịu trách nhiệm công dân trong việc học tập và rèn luyện của mình, không cần bảo trợ như ở phổ thông. Trong khi đó, rất nhiều 26 HSSV còn bỡ ngỡ với cuộc sống tự lập, đặc biệt là HSSV khu vực Tây Bắc là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, gia đình khó khăn. Các thế lực thù địch không chỉ tập trung vào việc xuyên tạc các vấn đề chính trị mà còn thông qua tuyên truyền văn hóa khơi dậy thị hiếu thấp hèn, phản động, đồi trụy, bạo lực để tác động đến HSSV. Một số người ham lối sống hưởng thụ, đua đòi đã bị tác động và có lối sống lệch lạc, xa lạ với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên Để thực hiện tốt công tác giáo dục ĐĐLS thì trước hết cấp ủy Đảng phải quan tâm chỉ đạo phối hợp đồng bộ, Lãnh đạo trường tích cực chỉ đạo, tổ chức thực hiện; toàn bộ hệ thống chính trị của nhà trường tập trung thực hiện. Có kế hoạch dài hạn, hàng năm và bố trí kinh phí, người thực hiện phù hợp. Khi triển khai phải tìm thời điểm thích hợp, tránh trường hợp triển khai vào những lúc HSSV đang giữa kì thực tập, ôn thi hoặc tổ chức nhiều hoạt động vào cùng một khoảng thời gian, gây quá tải cho hoạt động nhà trường. Khi xây dựng kế hoạch cần trao đổi và liên hệ chặt chẽ với các tổ chức, đoàn thể, địa phương ở các nội dung liên quan để khi triển khai được đồng bộ và ủng hộ của các lực lượng trong và ngoài trường. Phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm, trợ lí học tập, cán bộ tư vấn tâm lí HSSV. Người giáo dục phải gương mẫu, hiểu biết tâm lí người học, có chuyên môn và tâm huyết trong giáo dục ĐĐLS cho HSSV. Xác định giáo dục ĐĐLS phải gắn liền với đào tạo chuyên môn, cán bộ giáo viên chuyên môn cần kết hợp giáo dục ĐĐLS trong công việc của mình và là tấm gương để người học noi theo. Có cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả rèn luyện của HSSV. Đặc biệt chú trọng phát hiện và có giải pháp kịp thời hỗ trợ, xử lí đối với những biểu hiện sai lệch về đạo đức lối sống, thái quá trong các mối quan hệ, giao tiếp, ứng xử, ăn mặc, vui chơi, Phát huy vai trò tự học tập, tự rèn luyện tu dưỡng, tự quản của HSSV trong các hoạt động của nhà trường. Hình thành nhu cầu, động cơ phấn đấu trong học tập, rèn luyện, làm cho mỗi người tự giác, tự vươn lên trong điều kiện của mình. Đây là điều kiện quyết định sự thành công trong rèn luyện ĐĐLS của mỗi người. Trong trường, cần giao một đơn vị chủ trì công tác này và xây dựng được cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa phòng Công tác HSSV với Đoàn Thanh niên, các khoa, phòng ban của nhà trường trong giáo dục ĐĐLS HSSV. Cơ chế này được cụ thể hóa thành quy định, có kiểm tra, đánh giá, khen thưởng, kỉ luật kịp thời. Cụ thể hóa nội dung công tác giáo dục ĐĐLS thành quy định cụ thể, trong đó có quy định về quy tắc ứng xử văn hóa của cán bộ, giảng viên, giáo viên, nhân viên, HSSV nhà trường. Tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ tạo sân chơi lành mạnh, nâng cao nhận thức và kĩ năng nghề, kĩ năng sống, kĩ năng tham gia công tác xã hội cho HSSV. Chọn nội dung, phương 27 pháp, người thực hiện phù hợp, tạo sự tham gia tự giác, hứng thú của HSSV. Tăng cường sự tự quản của HSSV. Nhà trường phối hợp để tạo môi trường lành mạnh cho HSSV học tập, rèn luyện ở nhà trường, gia đình và xung quanh trường. Trong khi xã hội còn nhiều phức tạp, tệ nạn xã hội, tiêu cực thì chúng ta có thể vẫn giữ được môi trường lành mạnh ở mức độ phù hợp cho HSSV học tập và rèn luyện. Muốn vậy thì bản thân mỗi gia đình phải gương mẫu, mỗi nhà trường phải có kỉ cương, mỗi địa phương phải có giải pháp hữu hiệu đảm bảo an ninh trật tự, nhất là xung quanh khu vực trường. Sự phối hợp này phải được cả gia đình, nhà trường, chính quyền địa phương đồng thuận, cam kết và thực hiện có hiệu quả cụ thể. Kết luận Trong công tác giáo dục đào tạo, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống cho HSSV. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay đòi hỏi nhà trường phải chú trọng cả“dạy chữ” và “dạy nghề”. Giáo dục đạo đức lối sống cho HSSV là nhiệm vụ vô cùng quan trong và rất cần thiết. Đây là vấn đề lớn trong chiến lược con người mà Đảng và Nhà nước ta xác định phải quan tâm trong thời kì đổi mới, thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Khi tiến hành công tác này, các nhà trường cần xác định rõ kế hoạch, nội dung, chương trình cụ th; vận dụng hình thức thực hiện phong phú, hấp dẫn phù hợp với đặc điểm của từng trường và từng khu vực. Xác định rõ lực lượng tham gia công tác giáo dục đạo đức lối sống với chức năng nhiệm vụ cụ thể, xác định cơ chế phối hợp và có sự kiểm tra, giám sát rõ ràng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Lê Thị Tuyết Ba (2003), “Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, (1), tr. 9-11. [2]. Trần Hậu Kiêm – Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.. [3]. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. [4]. Quyết định số 50/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 29 tháng 8 năm 2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. về việc ban hành Quy định về công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trongcác đại học, học viện, trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp. [5]. Quyết định số 60/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 16 tháng 10 năm 2007 về việc ban hànhBan hành Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, sinh viên cáccơ sở giáo dục đại học và trường trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy 28 IMPROVING EDUCATION ETHICS, THE LIFESTYLE FOR THE STUDENT IN NORTHWEST REGION TODAY Nguyen Van Hong, Vu Manh Cuong, Duong Xuan Luong Tay Bac University Abstract: Moral education and lifestyle for pupils and students is a very important content in colleges and universities to meet the goal of a comprehensive education. They not only teaches "The knowledge" but most important is to teach Teachers council"personality", teaches students to people with good character. This paper clearly define the content and form, the Teachers council of moral education and lifestyle for students; assess the positives and drawbacks of this work to draw lessons oriented moral education for students living professional schools in the area of Northwest of Vietnam. Keywords: Education, moral, lifestyle, student.
File đính kèm:
- nang_cao_chat_luong_giao_duc_dao_duc_loi_song_cho_sinh_vien.pdf