Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015

Bảo lưu quyền sở hữu là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong hợp

đồng mua bán tài sản. Mặc dù Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 đã quy định nhưng vẫn

còn bộc lộ những thiếu sót, bất cập cần hoàn thiện để biện pháp này được áp dụng hiệu

quả trên thực tiễn.

Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 trang 1

Trang 1

Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 trang 2

Trang 2

Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 trang 3

Trang 3

Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 trang 4

Trang 4

Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 2760
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015

Một số vấn đề về biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015
ảo đảm, nhưng với 
biện pháp bảo lưu quyền sở hữu thì khó 
có thể xác định được một cách rõ ràng. 
Cụ thể, khoản 1 Điều 331 BLDS năm 
2015 quy định: “Trong hợp đồng mua bán, 
quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo 
lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực 
hiện đầy đủ”. Với quy định như vậy thì xác 
định bên bán là bên nhận bảo đảm, còn 
bên mua là bên bảo đảm hay ngược lại? 
Không những thế, khoản 1 Điều 295 BLDS 
năm 2015 lại quy định: “Tài sản bảo đảm 
phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ 
trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền 
sở hữu”. Quy định này lại càng làm cho 
việc xác định chủ thể trong quan hệ bảo 
đảm bằng biện pháp bảo lưu quyền sở 
hữu trở nên khó khăn bởi về nguyên tắc, 
bên bảo đảm là bên sở hữu tài sản mang 
ra bảo đảm, còn bên nhận bảo đảm là bên 
có quyền. Tuy nhiên, trong biện pháp bảo 
lưu quyền sở hữu thì không như vậy. Quy 
định như khoản 1 Điều 331 của Bộ luật 
hiện nay sẽ rất dễ dẫn đến cách hiểu là 
bên bảo đảm là bên bán, còn bên nhận bảo 
đảm là bên mua. Cách hiểu như vậy sẽ 
dẫn đến hệ quả là bên bán trở thành bên 
có nghĩa vụ, còn bên mua trở thành bên có 
quyền trong bảo lưu quyền sở hữu. Đó là 
điều bất hợp lý. Trong bảo lưu quyền sở 
hữu, bên bảo đảm cần phải là bên mua, 
bên nhận bảo đảm là bên bán vì hợp đồng 
mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các 
bên, theo đó bên bán chuyển giao quyền 
sở hữu đối với tài sản cho bên mua và bên 
mua trả tiền cho bên bán3. Nếu các bên 
không có thỏa thuận khác hoặc luật không 
có quy định khác thì thời điểm chuyển 
giao quyền sở hữu từ bên bán sang bên 
mua là thời điểm bên mua nhận tài sản4. 
Tuy nhiên, khi các bên có thỏa thuận về 
việc áp dụng biện pháp bảo lưu quyền 
sở hữu, bên mua sẽ bảo đảm thực hiện 
nghĩa vụ thanh toán của mình bằng cách 
để cho bên bán giữ lại quyền sở hữu (cái 
mà bên mua có quyền được hưởng từ hợp 
đồng mua bán) cho đến khi bên mua hoàn 
thành nghĩa vụ thanh toán. 
Điểm bất cập ở đây chính là BLDS 
năm 2015 không dùng thuật ngữ chỉ chủ 
thể trong quan hệ bảo đảm mà lại dùng 
thuật ngữ chỉ chủ thể trong quan hệ nghĩa 
vụ được bảo đảm, đó là bên bán và bên 
mua. Chính điều này đã dẫn đến việc xác 
3  Điều 430 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng 
mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo 
đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua 
và bên mua trả tiền cho bên bán.
Hợp đồng mua bán nhà ở, mua bán nhà để sử dụng 
vào mục đích khác được thực hiện theo quy định của 
Bộ luật này, Luật nhà ở và luật khác có liên quan”.
4  Khoản 1 Điều 161 BLDS năm 2015 quy định: “1. 
Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với 
tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật 
khác có liên quan; trường hợp luật không có quy định 
thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp 
luật không quy định và các bên không có thỏa thuận 
thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối 
với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên 
có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm 
hữu tài sản”.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BIỆN PHÁP BẢO LƯU QUYỀN SỞ HỮU...
48 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2021
định không rõ ràng về chủ thể trong quan 
hệ bảo đảm. Vấn đề này cũng chưa được 
khắc phục tại Dự thảo nghị định về bảo 
đảm thực hiện nghĩa vụ. 
Khác với BLDS năm 2015, pháp luật 
của Pháp quy định rất rõ ràng: Bên bán 
là bên nhận bảo đảm (bên có quyền), còn 
bên mua là bên bảo đảm (bên có nghĩa 
vụ)5. Để khắc phục điểm bất cập này, theo 
quan điểm của tác giả, nên sửa đổi thuật 
ngữ chỉ chủ thể trong quan hệ bảo đảm 
của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu theo 
hướng: Bên nhận bảo đảm (bên có quyền) 
và bên bảo đảm (bên có nghĩa vụ). Đồng 
thời, bỏ từ “bên bán” ra khỏi quy định tại 
khoản 1 Điều 331 BLDS năm 2015.
Thứ hai, về đối tượng của biện pháp 
bảo lưu quyền sở hữu
BLDS năm 2015 không có quy định cụ 
thể về đối tượng của biện pháp bảo lưu 
quyền sở hữu. Cũng chính điểm bất cập 
này đã gây nên sự hiểu lầm rằng chính tài 
sản là đối tượng của hợp đồng mua bán 
và là đối tượng của biện pháp bảo lưu 
quyền sở hữu. Tuy nhiên, như đã phân 
tích ở trên, trong bảo lưu quyền sở hữu thì 
quyền sở hữu đối với tài sản sẽ được bên 
bán giữ lại cho đến khi bên mua thanh 
toán hết nghĩa vụ. Chỉ khi nào bên mua 
hoàn thành nghĩa vụ thanh toán thì khi đó 
quyền sở hữu tài sản mới thuộc về họ. Do 
đó, nếu cho rằng tài sản trong hợp đồng 
mua bán là đối tượng của biện pháp bảo 
lưu quyền sở hữu thì không hợp lý mà nó 
chỉ là đối tượng của hợp đồng mua bán tài 
sản có áp dụng biện pháp bảo lưu quyền 
sở hữu. Còn đối tượng của biện pháp bảo 
lưu quyền sở hữu chính là quyền sở hữu 
đối với tài sản trong hợp đồng mua bán. 
Dự thảo nghị định về bảo đảm thực hiện 
nghĩa vụ có quy định tại khoản 4 Điều 14: 
“Tài sản dùng để bảo lưu quyền sở hữu là tài 
sản bán trong hợp đồng mua bán tài sản”. Với 
5  Xem từ Điều 2367 đến Điều 2372 bản dịch Bộ luật Dân 
sự Pháp của Nhà pháp luật Việt – Pháp năm 2012.
quy định này, cá nhân tác giả không hiểu 
nhà làm luật đang muốn quy định về đối 
tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu 
hay quy định về tài sản là đối tượng của 
hợp đồng mua bán có áp dụng biện pháp 
bảo lưu quyền sở hữu? Điều này sẽ dẫn đến 
sự bối rối cho các chủ thể khi lựa chọn biện 
pháp bảo lưu quyền sở hữu để bảo đảm 
cho quyền và lợi ích của mình. Theo quan 
điểm tác giả, nên bổ sung quy định về đối 
tượng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu 
vào BLDS năm 2015 để giải quyết điểm bất 
cập này theo hướng: Đối tượng của bảo lưu 
quyền sở hữu là quyền sở hữu đối với tài 
sản trong hợp đồng mua bán tài sản.
Thứ ba, về đối tượng của hợp đồng 
mua bán tài sản được áp dụng biện pháp 
bảo lưu quyền sở hữu
 BLDS năm 2015 không quy định cụ thể 
về tài sản là đối tượng của hợp đồng mua 
bán có áp dụng biện pháp bảo lưu quyền 
sở hữu, mà chỉ đề cập đến tài sản nói chung 
(là tài sản theo quy định tại Điều 105 của 
Bộ luật6). Như vậy, có thể hiểu mọi tài sản 
là đối tượng của hợp đồng mua bán để có 
thể áp dụng biện pháp bảo lưu quyền sở 
hữu, trong đó bao gồm cả tài sản tiêu hao 
và tài sản không tiêu hao. Tuy nhiên, khi 
đối chiếu với các quy định của BLDS năm 
2015 về bảo lưu quyền sở hữu, có thể thấy 
bên mua chỉ có quyền sử dụng tài sản và 
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời 
hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực7; bên 
mua chỉ có quyền sở hữu tài sản khi thực 
hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền cho bên 
bán; nếu bên mua không hoàn thành nghĩa 
6  Điều 105 BLDS năm 2015 quy định:
 “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất 
động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài 
sản hình thành trong tương lai.”
7  Điều 333 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài 
sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực.
2. Chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền 
sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢI
49Số 02 - 2021 Khoa học Kiểm sát
vụ thanh toán thì bên bán có quyền đòi lại 
tài sản8. Như vậy, đối với tài sản không 
tiêu hao trong hợp đồng mua bán có áp 
dụng biện pháp bảo lưu quyền sở hữu 
thì hoàn toàn có thể thực hiện được. Tuy 
nhiên, nếu đó là tài sản tiêu hao thì có thể 
áp dụng được biện pháp bảo lưu quyền 
sở hữu không? Bởi lẽ đối với tài sản tiêu 
hao thì sau khi bên mua sử dụng sẽ không 
giữ được tính chất, hình dáng và tính năng 
sử dụng ban đầu. Trường hợp bên mua 
không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán đối 
với bên bán thì bên bán sẽ không thực hiện 
được quyền đòi lại tài sản mà chỉ có thể 
yêu cầu bên mua phải bồi thường thiệt hại. 
Không những thế, nếu áp dụng biện pháp 
bảo lưu quyền sở hữu cho cả hợp đồng 
mua bán là tài sản tiêu hao thì khi bên mua 
vi phạm nghĩa vụ thanh toán sẽ phải hoàn 
trả lại tài sản cùng loại với tài sản ban đầu. 
Đây cũng là quy định được ghi nhận trong 
BLDS Pháp9. 
Như vậy, về bản chất đó không phải 
là hoàn trả lại chính tài sản ban đầu mà 
là bồi thường thiệt hại bằng một tài sản 
khác cùng loại. Hơn nữa, đối với tài sản 
tiêu hao nhưng nó là tài sản đặc định thì 
khi bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán 
sẽ lấy tài sản gì để trả lại cho bên bán. Do 
đó, nếu đưa cả tài sản tiêu hao vào trong 
hợp đồng mua bán có áp dụng biện pháp 
bảo lưu quyền sở hữu là khó thực hiện 
và không khả thi trên thực tiễn. Để khắc 
phục điểm bất cập này, tác giả kiến nghị 
8  Điều 332 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp bên 
mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên 
bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài 
sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua 
đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử 
dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản 
thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
9  Điều 2369 bản dịch BLDS Pháp của Nhà pháp luật 
Việt – Pháp năm 2012:
“Quyền sở hữu được bảo lưu đối với một vật tiêu 
hao có thể thực hiện bằng tài sản cùng loại và cùng 
chất lượng giữ bởi hoặc giữ cho người có nghĩa vụ 
bằng với số nợ còn phải trả”.
theo hướng: Bổ sung thêm một khoản vào 
Điều 421 BLDS năm 2015, cụ thể:
“Điều 431. Đối tượng của hợp đồng 
mua bán
1. Tài sản được quy định tại Bộ luật này 
đều có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán. 
Trường hợp theo quy định của luật, tài sản bị 
cấm hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thì tài 
sản là đối tượng của hợp đồng mua bán phải 
phù hợp với các quy định đó.
2. Tài sản bán thuộc sở hữu của người bán 
hoặc người bán có quyền bán.
3. Tài sản là vật tiêu hao không thể 
là đối tượng của hợp đồng mua bán có áp 
dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa 
vụ là bảo lưu quyền sở hữu”.
Thứ tư, về quyền của bên nhận bảo 
đảm (bên bán)
Điều 332 BLDS năm 2015 quy định về 
quyền đòi lại tài sản của bên mua khi bên 
mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Quy 
định này là hoàn toàn hợp lý bởi khi bên 
mua không thanh toán hoặc thanh toán 
không đầy đủ cho bên bán thì bên bán sẽ 
đòi lại tài sản để bảo toàn lợi ích vật chất 
của mình. Điều này thể hiện đúng bản 
chất của một biện pháp bảo đảm thực 
hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, điểm bất hợp lý 
trong Điều 332 BLDS năm 2015 lại nằm ở 
quy định: “Bên bán hoàn trả cho bên mua 
số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá 
trị hao mòn tài sản do sử dụng”. Quy định 
như vậy đã vô tình vô hiệu hóa quyền của 
bên nhận bảo đảm trong quan hệ bảo lưu 
quyền sở hữu, bởi đặt ra biện pháp bảo 
lưu quyền sở hữu là bên nhận bảo đảm 
muốn nghĩa vụ được bảo đảm là nghĩa vụ 
thanh toán. Thế nhưng quy định như trên 
đã không đảm bảo được mục đích của bảo 
lưu quyền sở hữu hướng tới và bên bán sẽ 
không được thanh toán số tiền còn thiếu. 
Thực tế, khi các bên thỏa thuận áp dụng 
biện pháp bảo lưu quyền sở hữu trong hợp 
đồng mua bán là nhằm mục đích đảm bảo 
bên mua sẽ phải thanh toán đủ cho bên bán 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BIỆN PHÁP BẢO LƯU QUYỀN SỞ HỮU...
50 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2021
chứ không phải nhằm mục đích lấy lại tài 
sản. Đồng thời, quy định này có thể dẫn tới 
thực trạng là nếu bên mua muốn trả lại tài 
sản và đòi lại số tiền đã trả cho bên bán thì 
chỉ cần không thanh toán hết số tiền như 
đã thỏa thuận10. Điều đó làm cho quyền 
của bên nhận bảo đảm không được bảo vệ.
Trong khi đó, BLDS Pháp – bộ luật mà 
các nhà làm luật đã tham khảo chủ yếu 
để đưa ra các quy định về bảo lưu quyền 
sở hữu lại có quy định rất khác về vấn đề 
này. Cụ thể, Điều 2371 BLDS Pháp quy 
định: “Nếu toàn bộ số nợ không được thanh 
toán đủ khi đến hạn, người có quyền có thể 
đòi lại tài sản để thu hồi quyền định đoạt đối 
với tài sản đó. Giá trị của tài sản lấy lại được 
trừ vào phần còn lại của quyền đòi nợ được 
bảo đảm. Nếu giá trị của tài sản lấy lại lớn 
hơn số tiền nợ được bảo đảm vẫn còn phải trả, 
người có quyền phải trả cho người có nghĩa 
vụ một khoản tiền bằng phần chênh lệch”. 
Theo quy định này, trường hợp bên mua 
không thanh toán đủ, đúng hạn thì bên 
bán có quyền lấy lại tài sản để khôi phục 
lại quyền định đoạt đối với tài sản này. 
Giá trị của tài sản lấy lại được sử dụng 
để thanh toán số tiền còn thiếu. Nếu giá 
trị của tài sản lấy lại lớn hơn số tiền còn 
nợ của bên mua thì bên bán trả lại phần 
chênh lệch cho bên mua. Điều này thể hiện 
đúng bản chất, mục đích mà biện pháp 
bảo lưu quyền sở hữu hướng tới. Khi bên 
mua không thanh toán được đủ số tiền 
còn thiếu cho bên bán thì bên bán lấy lại 
tài sản với mục đích để trừ vào khoản còn 
thiếu chứ không phải là lấy lại tài sản rồi 
hoàn trả lại số tiền đã nhận từ bên mua 
như quy định của BLDS năm 2015. Theo 
tác giả, BLDS năm 2015 cần sửa đổi quy 
định tại Điều 332 theo hướng tham khảo 
quy định trong BLDS Pháp, cụ thể: 
10  TS. Bùi Đức Giang, Lập pháp nhìn từ quy định về 
bảo lưu quyền sở hữu tài sản, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn 
online, năm 2016. Link: https://www.thesaigontimes.
vn/153622/Lap-phap-nhin-tu-quy-dinh-bao-luu-
quyen-so-huu-tai-san.html
“Điều 332. Quyền đòi lại tài sản
Trường hợp bên bảo đảm không hoàn 
thành nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận bảo 
đảm theo thỏa thuận thì bên nhận bảo đảm có 
quyền đòi lại tài sản. Giá trị của tài sản lấy lại 
được trừ vào phần còn lại của nghĩa vụ trả nợ. 
Nếu giá trị của tài sản lớn hơn số tiền nợ phải 
trả thì bên nhận bảo đảm trả cho bên bảo đảm 
khoản tiền chênh lệch”.
Nói tóm lại, so với BLDS năm 2005 thì 
BLDS năm 2015 đã có những quy định cụ 
thể hơn về biện pháp bảo lưu quyền sở 
hữu. Đồng thời, BLDS năm 2015 đã nâng 
vị trí biện pháp này từ quy định chỉ mang 
tính chất bảo đảm trong hợp đồng mua 
trả chậm, trả dần trong BLDS năm 2005 
thành một biện pháp bảo đảm thực hiện 
nghĩa vụ độc lập. Đây là điều đáng ghi 
nhận của BLDS năm 2015. Tuy còn một số 
điểm bất cập nhưng với những kiến nghị 
hoàn thiện mà tác giả đưa ra trong phạm 
vi bài viết này đã góp phần làm hoàn thiện 
hơn những quy định về biện pháp bảo lưu 
quyền sở hữu, để biện pháp này thực sự 
được áp dụng một cách có hiệu quả và 
thiết thực trong thực tiễn hiện nay./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự năm 2005;
2. Bộ luật dân sự năm 2015;
3. Bản dịch Bộ luật dân sự Pháp của Nhà 
pháp luật Việt – Pháp năm 2012;
4. TS. Bùi Đức Giang, Lập pháp nhìn từ quy 
định về bảo lưu quyền sở hữu tài sản, Tạp chí Kinh tế 
Sài Gòn, năm 2016;
5. PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Vật quyền bảo đảm: 
kinh nghiệm của nước ngoài cho Việt Nam, Hội thảo 
quốc tế về Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ 
dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí 
Minh, tháng 9/2014;
6. TS. Nguyễn Minh Tuấn, Những nội dung 
của phần nghĩa vụ và hợp đồng còn nhiều bất cập, Hội 
thảo về Góp ý dự thảo Bộ luật dân sự năm 2005 sửa 
đổi, Trường Đại học Luật Hà Nội, tháng 3/2015;
7. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí 
Minh, Hội thảo về Những điểm mới trong Bộ luật dân 
sự năm 2015, tháng 3/2016.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_bien_phap_bao_luu_quyen_so_huu_theo_quy_din.pdf