Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Tóm tắt

Đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã đi được chặng đường 25 năm,

đây là dấu mốc ý nghĩa đối với giảng viên và sinh viên Khoa Du lịch, đồng thời cũng là thời điểm quan

trọng để Trường và Khoa thực hiện việc đánh giá về hoạt động đào tạo để có thể nâng cao chất lượng

đào tạo trong một bối cảnh mới. Bài viết đề cập khái quát về bối cảnh chung, phân tích điểm mạnh,

điểm yếu, cơ hội và thách thức của đào tạo nhân lực ngành Du lịch tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,

góp phần xác lập định hướng chiến lược cho công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao

đáp ứng nhu cầu xã hội.

Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội trang 1

Trang 1

Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội trang 2

Trang 2

Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội trang 3

Trang 3

Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội trang 4

Trang 4

Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội trang 5

Trang 5

Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội trang 6

Trang 6

Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 1800
Bạn đang xem tài liệu "Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội
rường và 
sau khi tốt nghiệp. Đội ngũ cựu sinh viên ra 
trường, phát triển, thành đạt có mối gắn kết 
chặt chẽ, hỗ trợ Khoa trong quá trình đào tạo. 
Một số chương trình có sự chia sẻ kinh nghiệm, 
kỹ năng của cựu sinh viên như: Chương trình 
khởi nghiệp (2016); Hội thảo “Mối liên hệ giữa cơ 
sở đào tạo với xã hội trong đào tạo nhân lực du 
lịch ở Việt Nam hiện nay” (2018); Cuộc thi Hành 
trình cùng hướng dẫn viên du lịch được tổ chức 
thường niên đã trở thành một trong những sản 
phẩm đặc trưng của quá trình đào tạo nhân lực 
du lịch ở Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. “Sản 
phẩm đặc hữu” này cùng với nhiều chuỗi các 
sự kiện được tổ chức bài bản, chất lượng, hiệu 
quả, thường xuyên, liên tục đã góp phần tạo 
nên thế mạnh trong đào tạo nhân lực du lịch ở 
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
2.2. Điểm yếu (W)
Là khoa đầu tiên và duy nhất cho đến hiện 
nay (3/2019) trong Trường Đại học Văn hóa Hà 
Nội xây dựng và công bố bộ nhận diện thương 
hiệu, tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những 
hạn chế về sự đồng bộ và đa dạng. Chẳng hạn, 
khi Khoa công bố logo và slogan để “Nhận diện 
thương hiệu” nhưng những điều kiện về cơ chế 
hoạt động cũng như điều kiện về cơ sở vật 
chất kỹ thuật chưa đảm bảo, chưa tương thích. 
Bên cạnh đó, hoạt động quản trị cũng chưa 
đủ để tạo ra giá trị tích cực cho thương hiệu, 
để trở thành thương hiệu mạnh, đạt đến mức 
“là toàn cảm nhận của khách hàng về công 
ty trong tâm trí của họ” (9). Hoạt động hoạch 
định chiến lược phát triển dài hạn còn chưa cụ 
thể; đồng thời nhà trường chưa khẳng định rõ 
vai trò quan trọng, mũi nhọn của Khoa Du lịch 
trong sự phát triển chung của Trường.
Công tác quản trị và phát triển nguồn nhân 
lực của đơn vị nằm trong định hướng hoạt 
động chung của nhà trường chưa tương xứng 
với yêu cầu phát triển của Khoa. Cụ thể, nếu so 
sánh với bề dày 25 năm xây dựng, phát triển 
của Khoa, thì số lượng giảng viên, chuyên gia 
trình độ cao cấp còn tương đối khiêm tốn với 1 
phó giáo sư tiến sĩ, 2 nghiên cứu sinh.
Chương trình đào tạo sau 5 năm chuyển 
đổi theo phương thức đào tạo tín chỉ đã đến 
thời điểm cần rà soát, điều chỉnh cập nhật, đặc 
biệt là một số điểm còn hạn chế cần nhanh 
chóng cải tiến để đạt được mục tiêu phát triển 
của khoa/ngành như bổ sung kiến thức, kỹ 
năng để đáp ứng các yêu cầu hội nhập, yêu 
cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0, hay nhu 
cầu của xã hội thông qua việc khai thác hiệu 
quả sự tham gia góp ý của các bên liên quan, 
bao gồm các cơ quan, doanh nghiệp du lịch, 
đội ngũ chuyên gia
Cơ sở vật chất phục vụ cho học chuyên 
ngành và thực hành đã được đầu tư, tuy nhiên 
so với nhu cầu phát triển thực tế thì vẫn còn 
một khoảng cách. Các hình thức ký kết với 
doanh nghiệp du lịch chưa đa dạng, mới tập 
trung cho các kỳ thực tập, thực tế. Còn thiếu 
cơ chế và sự phối hợp đồng bộ trong việc thúc 
đẩy doanh nghiệp tham gia vào quá trình 
giảng dạy và học tập để có được tính ứng 
dụng thực tiễn cao hơn. 
Các hoạt động trợ giúp sinh viên tìm kiếm 
việc làm hiện nay hiệu quả chưa cao, tỷ lệ sinh 
viên có việc làm đúng ngành chưa tương xứng 
với mong đợi. Theo kết quả khảo sát tình hình 
việc làm của sinh viên tốt nghiệp năm 2017 chỉ 
có 65% sinh viên tốt nghiệp làm đúng ngành 
hoặc liên quan đến ngành đào tạo (13). Sự 
quan tâm khai thác nguồn lực từ cựu sinh viên, 
đặc biệt là cựu sinh viên du lịch thành đạt, đã 
được chú ý nhưng hiệu quả còn ở mức hạn chế 
do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, trong khi 
đó đây là nguồn lực có tiềm năng góp phần 
vào việc tiếp nhận đầu ra, quảng bá hình ảnh, 
giới thiệu việc làm, trao đổi kinh nghiệm...
125Số 27 - Tháng 3 - 2019
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm
 thành lập Trường ĐHVHHN
2.3. Cơ hội (O)
Phát triển du lịch được xác định là nhiệm 
vụ chiến lược, góp phần chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế, bảo tồn và phát huy các giá trị văn 
hóa, tài nguyên du lịch của đất nước, hơn nữa 
sẽ là cơ hội để đẩy mạnh hợp tác và hội nhập, 
qua đó quảng bá hình ảnh Việt Nam với các 
nước trên thế giới. Với tầm quan trọng của 
ngành Du lịch, năm 2017, Bộ Chính trị đã ban 
hành nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển 
du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đó 
là định hướng quan trọng để phát triển kinh 
tế đất nước. Hiện nay, ngành Du lịch Việt Nam 
đang được coi là ngành trọng điểm, có nhiều 
tín hiệu mới cho sự phát triển, thu hút được sự 
quan tâm của toàn xã hội.
Khoa Du lịch được coi là một trong những 
ngành đào tạo mũi nhọn của Trường, vì vậy các 
hoạt động phục vụ cho quá trình đào tạo được 
Nhà trường quan tâm đầu tư nguồn lực như 
tăng số lượng giảng viên cơ hữu có chuyên 
môn nghiệp vụ du lịch, phòng học thực hành, 
khuyến khích ký kết hợp tác với các cơ quan, 
doanh nghiệp du lịch.
Nhu cầu của xã hội đối với nguồn nhân lực 
du lịch ngày càng lớn. Thực tế mỗi năm, các 
trường đào tạo chuyên ngành về du lịch chỉ 
đáp ứng được 60% nhu cầu của ngành, dẫn 
đến tình trạng thiếu nguồn nhân lực du lịch 
trầm trọng, đặc biệt là nguồn nhân lực du lịch 
chất lượng cao. Vì vậy, Khoa Du lịch đang trong 
thời điểm phát triển, nguyện vọng đăng ký vào 
trường nhiều năm nay vẫn duy trì ở mức cao, 
điểm và chất lượng đầu vào tốt. Đây chính là 
động lực để khoa tiếp tục có định hướng phát 
triển trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực 
cho đất nước. 
Hơn nữa, đào tạo du lịch tại Trường Đại học 
Văn hóa Hà Nội với hướng đi riêng như đã nói 
ở trên là khai thác các giá trị văn hóa để phát 
triển du lịch sẽ vẫn tạo được uy tín trong các cơ 
sở đào tạo du lịch. Chính vì vậy, Khoa cần nắm 
bắt cơ hội nhằm thu hút nguồn tuyển sinh cho 
các năm tiếp theo. 
Nhà trường đã ký kết thỏa thuận hợp tác 
với Công ty Cổ phần Vinpearl thuộc Tập đoàn 
Vingroup nhằm tạo điều kiện cho sinh viên 
thực tập, thực hành tại các cơ sở hoạt động 
trong lĩnh vực du lịch thuộc sở hữu hoặc quản 
lý của Vinpearl, đồng thời còn là các cam kết 
về cơ hội làm việc tại Vinpearl cùng các hoạt 
động hỗ trợ sinh viên bao gồm hoạt động tư 
vấn hướng nghiệp, chương trình Tour tham 
quan thực tế nghề nghiệp... 
2.4. Thách thức (T)
Có thể thấy rằng, hiện nay có nhiều cơ hội 
mở ra cho việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch. 
Tuy nhiên, công tác đào tạo này cũng phải đối 
mặt với nhiều thách thức. 
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và 
đang tác động đến mọi lĩnh vực của xã hội, 
trong đó ngành Du lịch cũng cần phải thay đổi 
để phù hợp với xu thế phát triển, đó là phát 
triển nguồn nhân lực trong thời đại số. Thực tế 
đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực du lịch chất 
lượng cao, có khả năng đáp ứng nhu cầu xã 
hội và thị trường lao động, đặc biệt khi ngành 
Du lịch hướng tới “du lịch thông minh”. Tuy 
nhiên, thực tế đào tạo hiện nay cho thấy điều 
kiện về mặt trang thiết bị khoa học kỹ thuật 
và công nghệ chưa đáp ứng; trình độ chuyên 
môn sử dụng công nghệ hiện đại của cán bộ 
giảng viên chưa cao.
Trong quá trình đào tạo, Khoa Du lịch gặp 
phải sự cạnh tranh gay gắt với các chương trình 
đào tạo khác ngoài Trường và cả các chương 
trình liên kết hoặc du nhập từ nước ngoài. Tác 
động của hội nhập và toàn cầu hóa, sự cạnh 
tranh của nguồn nhân lực các nước trong khu 
vực đòi hỏi chương trình đào tạo ngành Du 
lịch phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn nghề của 
quốc gia và khu vực.
Môi trường làm việc của ngành Du lịch 
trong nước so với thế giới và khu vực còn chưa 
thực sự chuyên nghiệp. Cụ thể, đó là sự thiếu 
chặt chẽ về pháp luật, quy định, sự hạn chế về 
năng lực quản lý, điều hành, về kỹ năng nghiệp 
vụ, trình độ ngoại ngữ, tác phong, thái độ, đạo 
đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội, của 
đội ngũ giảng viên còn chưa đáp ứng yêu cầu 
đặt ra từ thực tiễn dẫn đến khoảng cách giữa 
126
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số 27 - Tháng 3 - 2019
mục tiêu đào tạo của Khoa với thực tế đòi hỏi 
của thị trường lao động. Bên cạnh đó, một số 
tác động khách quan của đời sống xã hội cũng 
ảnh hưởng đến định hướng, mục tiêu của 
người học dẫn đến chất lượng đào tạo chưa 
thực sự đáp ứng nhu cầu thực tế. 
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Để công tác đào tạo du lịch tại Trường Đại 
học Văn hóa Hà Nội có bước tiến mới trong một 
bối cảnh mới với nhiều cơ hội và thách thức, 
cần thực hiện một số nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, cần xác định xây dựng khoa/
ngành đào tạo du lịch trở thành một thương 
hiệu mạnh, đóng vai trò nòng cốt, mũi nhọn 
trong định hướng chiến lược để phát triển 
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Xác định mục 
tiêu sứ mạng của Khoa là đào tạo nguồn nhân 
lực chất lượng cao, có khả năng đáp ứng tốt 
các yêu cầu của ngành Du lịch, không chỉ thu 
hẹp trong phạm vi đất nước mà mở rộng ra 
thị trường quốc tế, để từ đó có tầm nhìn chiến 
lược là trở thành một địa chỉ đào tạo nguồn 
nhân lực du lịch có uy tín trong khu vực ASEAN. 
Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế trong nhà 
trường để quản lý các hoạt động liên quan 
đến hoạch định và quản trị chiến lược, quản 
trị thương hiệu và cũng cần có sự hỗ trợ tư 
vấn bởi đội ngũ chuyên môn để có được tính 
chuyên nghiệp. Các hoạt động truyền thông 
cần được thực hiện một cách bài bản và có sự 
đo lường đánh giá về hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng, cập nhật chương trình 
đào tạo gắn với chuẩn đầu ra, nhu cầu thực 
tiễn của xã hội và vị trí việc làm của nhà tuyển 
dụng. Đổi mới chương trình đào tạo theo 
hướng giảm tải các học phần lý thuyết, tăng 
cường các giờ học ngoại khóa, thực hành, 
thực tập, tạo sự hứng thú và rèn luyện các kỹ 
năng cho người học. Trong định hướng chiến 
lược, Nhà trường nên lựa chọn các ngành về 
du lịch để xây dựng chương trình đào tạo 
theo chương trình định hướng nghề nghiệp 
ứng dụng POHE (Profession - Oriented Higher 
Education). Chương trình POHE tập trung vào 
mục tiêu nâng cao năng lực nghề nghiệp của 
sinh viên bằng cách xây dựng các chương 
trình đào tạo gắn kết chặt chẽ giữa trường đại 
học với thế giới nghề nghiệp (thị trường lao 
động) trong mọi khâu của quá trình đào tạo 
như: phát triển chương trình đào tạo, tổ chức 
hoạt động đào tạo gồm dạy học và thực hành, 
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh 
viên. Đồng thời chương trình POHE tiếp cận 
dựa trên năng lực, có nghĩa là hướng tới hình 
thành năng lực làm việc, trang bị đầy đủ kiến 
thức, kỹ năng và thái độ cho người học, nhằm 
đáp ứng với đòi hỏi ngày càng cao của thế giới 
việc làm. Vì vậy, chương trình POHE có sự phù 
hợp với các ngành đòi hỏi kỹ năng thực hành 
cao như du lịch.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao trình độ cho giảng 
viên bởi đây là yếu tố có vai trò quyết định tới 
chất lượng đào tạo của Khoa. Trước hết giảng 
viên cần học tập để nâng cao trình độ chuyên 
môn, đồng thời Khoa cần có chiến lược để gia 
tăng số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ. 
Bên cạnh đó cần tập trung nâng cao năng lực 
và kinh nghiệm thực hành nghề nghiệp, khả 
năng thực hiện các phương thức dạy học tích 
cực tạo sự hứng thú và chủ động cho sinh viên 
đồng thời phải có khả năng tốt về tiếng Anh, 
có năng lực nghiên cứu khoa học ứng dụng và 
quan hệ với thế giới nghề nghiệp. 
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động liên kết trong 
công tác đào tạo nhân lực du lịch với các cơ 
sở đào tạo, tổ chức, doanh nghiệp du lịch 
trong và ngoài nước trong quá trình thực hiện 
chương trình đào tạo theo định hướng nghề 
nghiệp ứng dụng một cách bền vững và toàn 
diện. Đó là sự tham gia trực tiếp của các đơn vị 
này vào quá trình xây dựng, bổ sung và hoàn 
thiện chuẩn đầu ra, nội dung chương trình 
đào tạo; liên kết với nhiều hình thức đa dạng 
để đào tạo các năng lực làm việc và kỹ năng 
thực hành theo nhu cầu; đặt ra các bài tập tình 
huống, bài tập nghiên cứu xảy ra thực tiễn tại 
các doanh nghiệp; tham gia vào công tác đánh 
giá kỹ năng thực hành nghề của sinh viên, 
đánh giá và kiểm định chất lượng của chương 
trình đào tạo
127Số 27 - Tháng 3 - 2019
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm
 thành lập Trường ĐHVHHN
Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất, hệ thống 
học liệu, tài liệu tham khảo và trang thiết bị 
đặc thù để sinh viên thực hành với những học 
phần mang tính đặc trưng nghề nghiệp. Phát 
triển các hệ thống hỗ trợ học tập tiếp cận với 
xu hướng 4.0 (hệ thống học trực tuyến, dữ liệu 
số,...) để tạo ra năng lực cần thiết cho sinh viên 
trong cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của thị 
trường lao động trong tương lai.
Kết luận
Có thể thấy rằng, nguồn nhân lực du lịch, 
đặc biệt là nguồn nhân lực du lịch chất lượng 
cao đóng vai trò quan trọng trong quá trình 
phát triển đất nước nhằm hướng tới mục tiêu 
ngành Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi 
nhọn vào năm 2020 và hướng tới du lịch thông 
minh trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. 
Vì vậy, việc nhìn nhận và đánh giá quá trình 
đào tạo nhân lực du lịch của Trường Đại học 
Văn hóa Hà Nội trong giai đoạn này là cần thiết 
(mà bài viết này chỉ có tính chất tham góp) 
để có chiến lược phát triển, đào tạo nguồn 
nhân lực đáp ứng yêu cầu môi trường làm việc 
chuyên nghiệp trong nước và quốc tế.
N.T.T
(ThS., Khoa Văn hóa dân tộc thiểu số, 
Trường ĐHVHHN)
Tài liệu tham khảo
1. Yến Anh (2017), Cơ chế đặc thù đào tạo 
nhân lực du lịch, https://nld.com.vn/giao-duc-
khoa-hoc/co-che-dac-thu-dao-tao-nhan-luc-du-
lich-20171121214756709.htm
2. Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị 
quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính 
trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi 
nhọn. 
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Công văn 
số 4929/BGDĐT-GDĐH ngày 20/10/2017 về việc áp 
dụng cơ chế đặc thù đào tạo các ngành về du lịch.
4. Hồ Hạ (2018), Nhân lực du lịch: Vừa thiếu, 
vừa yếu, 
vua-thieu-vua-yeu-320283.html
5. Phạm Thị Hương, Trần Đăng Hòa, Nguyễn 
Đức Xuân Chương (2009), Sổ tay giảng viên Pohe, 
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án Giáo dục đại học 
Việt Nam - Hà Lan, Hà Nội.
6. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001), 
Kinh tế du lịch và Du lịch học, Nxb. Trẻ, Thành phố 
Hồ Chí Minh.
7. Lâm Minh (2017), Năm 2017 đánh dấu kỳ 
tích tăng trưởng của du lịch Việt Nam, http://
toquoc.vn/du-lich/nam-2017-danh-dau-ky-tich-
tang-truong-cua-du-lich-viet-nam-268735.html
8. Hoa Quỳnh (2018), Du lịch Việt Nam 2018: 
Thu quả ngọt, https://baomoi.com/du-lich-viet-
nam-2018-thu-qua-ngot/c/29187864.epi
9. Saobang Media (2017), Thương hiệu, nhận 
diện thương hiệu và biểu trưng là gì?, 
brandsvietnam.com/congdong/topic/5449-
Thuong-hieu-nhan-dien-thuong-hieu-va-bieu-
trung-la-gi
10. Dương Văn Sáu (2017), Giáo trình Văn hóa 
du lịch, Nxb. Lao động, Hà Nội.
11. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 
số 2473/QĐ TTG phê duyệt Chiến lược phát triển 
du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 
2030.
12. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2009), 
Sách hướng dẫn chương trình giáo dục đại học 
định hướng nghề nghiệp ứng dụng ngành Du lịch 
và Khách sạn, Hà Nội.
13. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2018), Báo 
cáo tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp năm 
2017, 
 Ngày nhận bài: 16 - 1 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 25 - 2 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 20 - 3 - 2019

File đính kèm:

  • pdfmot_so_trao_doi_ve_dao_tao_nguon_nhan_luc_du_lich_o_truong_d.pdf