Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức

Bài viết này xem xét một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức. Ông cho

rằng điều kiện để có được một tâm trí tự do là chính khả năng của tâm trí có thoát khỏi được tri kiến

thức của chính mình hay không. Chính con người bị điều kiện hóa bởi tri thức đã tự loại bỏ điều kiện

tồn tại của tâm trí tự do. Và trong hoàn cảnh ấy, tri thức là quá khứ, ý chí và cả sự kỳ vọng là tương

lai. Quá khứ là cái đã qua, tương lai thì chưa đến. Sự chia rẽ, dằng xé nảy sinh trong hoàn cảnh này

(thời gian) luôn thôi thúc con người chạy trốn thực tại, trong khi thực tại mới là chân lý. Con người

càng chạy trốn, càng rời xa thực tại, cũng là rời xa chân lý, thì càng đau khổ. Càng đau khổ, con

người cho rằng mình chưa hiểu biết chứ không biết rằng mình đã biết quá nhiều. Do đó, con người

phải biết tạo cho mình một tâm trí tự do thông qua việc chấm dứt thời gian, đánh thức trí thông minh

ở mỗi người. Tất cả phải được tự thực hiện vì Krishnamurti cho rằng “chân lý là mảnh đất không có

lối vào”.

Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức trang 1

Trang 1

Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức trang 2

Trang 2

Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức trang 3

Trang 3

Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức trang 4

Trang 4

Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức trang 5

Trang 5

Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 1380
Bạn đang xem tài liệu "Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức

Một số quan điểm cơ bản của Krishnamurti về nhận thức
Trong đó, thực tại bên 
trong mới thật sự là nguồn gốc của nhận 
thức. Nhưng thực tại bên trong là thực tại bị 
phân mảnh, chia cắt và đầy mâu thuẫn. Sự 
xung đột của những phân mảnh, chia cắt và 
mâu thuẫn chính là động lực của nhận thức. 
Điều kiện của nhận thức là đồng thời thấy 
được cả hai mặt đối lập của đối tượng. Ta chỉ 
có thể biết một cái gì đó khi ta đã biết rõ tính 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI SỐ 27+28 – 05/2018 
257 
chất cái đối lập với nó. Khi ta biết bạo lực là 
gì thì ta mới có thể biết được thế nào là bất 
bạo động. Ta không thể biết tình yêu là gì 
nếu ta chưa nhận thức được thế nào là sự ích 
kỷ và thù hận. Cuộc sống là sự chuyển động 
không ngừng của các mối quan hệ chứa đựng 
tính chất mâu thuẫn phổ quát mà ở đó ta luôn 
cố gắng vận dụng và kiểm soát. Chẳng hạn 
như khi ai đó lăng mạ ta, trong ta tràn ngập 
sự giận dữ (vận dụng) hoặc ta cố gắng trầm 
tĩnh (kiểm soát); khi ai đó khen ngợi ta, trong 
ta phát khởi sự kiêu hãnh (vận dụng) hoặc ta 
tự hào và tự chủ (kiểm soát). Vấn đề của con 
người là vận dụng thì nhiều mà kiểm soát thì 
ít. Thế nên nhiệm vụ của nhận thức theo 
Krishnamurti là làm cho ta có thể kiểm soát 
và hạn chế sự vận dụng nhằm tăng phản ứng 
tích cực, giảm những phản ứng tiêu cực ở ta. 
2.3. Mục đích của nhận thức 
Là chân lý nhưng chân lý tuyệt nhiên 
không phải là cái con người tìm kiếm vì chân 
lý vốn đã ở trong ta. Ta chỉ có thể thông qua 
nhận thức để gột rửa những rêu phong bám 
đầy, che mờ chân lý. Cuộc sống là quá trình 
băng giá, rêu phong những chân lý bên trong 
mỗi con người. 
Đời ta như viên kẹo với lớp chân lý ở 
bên trong và được trám đầy những giá trị của 
thời gian. Những gì mà ta nhận thức được đã 
là quá khứ còn cái mà ta kỳ vọng là ở tương 
lai, cái chưa xảy đến. Chân lý không ở quá 
khứ, chân lý không ở tương lai, chân lý là tức 
thời, là thực tại. Chân lý bị trói buộc bởi thời 
gian. Muốn thấy chân lý ta phải phá bỏ lớp 
vỏ của thời gian, đi vào thực tại. 
2.4. Nhận thức chân lý 
Theo Krishnamurti “chân lý là đất 
không lối vào”, nghĩa là hoàn toàn tự do, tình 
yêu và trí tuệ [1, XIV]. 
Krishnamurti cho rằng, chân lý vốn 
không giới hạn, không điều kiện, không thể 
bị tổ chức, con người không thể tiếp cận chân 
lý bằng bất cứ lối vào nào (tôn giáo, tông 
phái nào) [1, 2]. 
Mục đích của Krishnamurti là làm sao 
cho con người giải thoát vô điều kiện, vì theo 
ông “chỉ có tâm linh là trạng thái bất hoại 
của bản ngã, là vĩnh cửu, là sự hòa hợp giữa 
lý trí và tình yêu”, ông coi đây là “chân lý 
tuyệt đối, vô điều kiện, là chính sự sống”, 
“chân lý ở trong mỗi con người, nó không ở 
xa, không ở gần; nó vĩnh viễn ở ngay đó”[1, 
8]. Và ông kết luận: “Nếu nội tâm các bạn 
đẹp hoặc xấu thì ngoài các bạn ra, còn ai có 
thể nói cho bạn biết” [1, 9]. 
Krishnamurti cũng cho rằng, “hầu hết 
người ta đánh mất nghệ thuật nghe”, “nếu 
biết cách lắng nghe, bạn sẽ bắt đầu hiểu cái 
toàn bộ và tâm trí của bạn sẽ không bị vướng 
mắc vào cái cá biệt”[1, 71], ông khuyên mọi 
người đừng xem cuộc sống như các vấn đề 
tách biệt nhau, mà lĩnh hội nó như một toàn 
bộ với một tâm trí không bị bóp nghẹt vì việc 
tìm kiếm giải pháp, phải biết suy nghĩ một 
cách sáng tạo để tìm ra nguyên nhân thật sự 
của vấn đề. Trong quá trình nhận thức, khi 
bắt đầu nhận ra sự hoàn toàn bất túc của suy 
nghĩ và cảm xúc, con người sẽ nổi lên ý 
tưởng tích lũy và từ đó sinh ra sự phân chia 
giữa cái “Ta”, sự tự kỷ ý thức và cứu cánh. 
Theo Krishnamurti, không có sự phân chia 
như thế, vì lúc toàn mãn thì không có con 
người hành động và hành động, mà chỉ có 
chuyển động sáng tạo của ý nghĩ, có sự sống 
động liên tục đang tìm kiếm kết quả. Theo 
Krishnamurti “chỉ có minh triết là sự am 
hiểu, ở đó không có sự tự vệ”[1, 77]. Nghĩa 
là, an toàn, tự vệ là hệ quả của sự bất túc mà 
trong đó không có sự suy nghĩ sáng tạo, chỉ 
có sự vật lộn liên tục giữa cái “Ta” và xã hội. 
Như vậy, chỉ có thể qua nhận thức mà tìm ra 
nguyên nhân của sự bất túc, nghĩa là bằng 
việc nhìn vào môi trường và xuyên qua ý 
nghĩa của môi trường mà vén lộ những tinh 
vi của sự tự vệ [1, 78], để phát hiện ra những 
tinh vi đó, con người phải có nhận thức, nhận 
biết nhưng không phải là sự cải tiến, điều 
chỉnh mà là sự hoàn toàn giải phóng khỏi 
môi trường. Con người “chỉ có thể hiểu được 
vấn đề với tất cả sự phức tạp của chúng qua 
sự nhận thức toàn bộ của tâm trí và con 
tim”[1, 79]. Lúc đó có sự ngây ngất, trong 
nỗi ngây ngất không sao diễn tả xiết, có sự 
chuyển động sống động của chân lý, cái 
không phải là cứu cánh, không phải là cực 
điểm mà là một cuộc sống sáng tạo hơn bao 
giờ hết. Chừng nào chúng ta sống không 
nhạy cảm với chân lý, sẽ không có sự ngây 
ngất, không có sự bất tử. 
258 
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 27+28, May 2018 
2.5. Nhận thức phải là tự ý thức 
Ta chỉ có thể chấm dứt mọi sự hành hạ, 
dày vò của chính ta bằng cách tự nhận thức 
đầy đủ về bản thân mình, nhận thức đầy đủ 
bản thân, ta mới có thể chấm dứt mọi suy 
niệm và giải phóng. Giải phóng là một trạng 
thái mà ở đó mọi suy niệm của tâm thức đã 
chấm dứt. Khi ta ngất ngây trong tình yêu, 
cái “Tôi” hay cái “Ta” không còn nữa. Trong 
hạnh phúc của tình yêu, mọi suy niệm của 
tâm thức dường như không tồn tại. Cũng như 
vậy, trong trạng thái của thuốc lắc, ma túy, 
sự vắng mặt của suy niệm đồng thời là sự 
vắng mặt của ý thức khổ đau. Chấm dứt suy 
niệm bằng sự thấu triệt là chân lý giải phóng 
và chấm dứt suy niệm bằng chất kích thích là 
nhất thời giải phóng, và là “sự giam cầm” trở 
lại. Ta phải nắm bắt và làm chủ hoàn toàn 
hoàn cảnh thì ta mới có thể giải phóng cho ta. 
Ta sẽ thất bại nếu ta không đánh thức được 
trực giác và sự thông minh của chính mình. 
Krishnamurti muốn đặt lại vấn đề rằng 
tại sao con người có thể thoát khỏi thế giới 
loài vật? Nếu toàn bộ hoạt động của con 
người, toàn bộ suy nghĩ của con người đều 
tuân thủ tất cả những gì mà tự nhiên vốn có, 
tuân thủ tất cả những quy định mà tạo hóa đã 
tự tại thì liệu rằng con người có khác các loài 
sinh vật khác hay không? 
Trong hoàn cảnh bị điều kiện hóa của tự 
nhiên, con người đã hành động bất tuân tự 
nhiên, đó là hành động tự do. Nó xuất phát từ 
bộ não, vì não chi phối hành vi. Thay vì sợ 
hãy và chạy trốn lửa như những con vật khác, 
con người nhìn ngắm, tìm hiểu, tiến lại gần 
và tìm cách điều khiển lửa... Con người dần 
trở thành con người, suy nghĩ và hành động 
vượt khỏi sự quy định của tự nhiên giúp giải 
phóng con người khỏi con vật. Con người 
giải phóng mình khỏi giới tự nhiên. 
Con người tạo ra giới tự nhiên thứ hai 
cho riêng mình và trong sự tự hào mang tính 
người ấy, con người nghĩ rằng mình phải học 
cách để trở nên giải thoát. Nhưng càng tích 
lũy tri thức, càng tuân thủ những nguyên tắc 
mà con người sáng tạo ra, con người càng bị 
phụ thuộc, con người bị giam cầm trong 
những sáng tạo của chính mình, con người 
tiếp tục bị giới tự nhiên thứ hai này quy định. 
Trong giới tự nhiên thứ hai này, con người 
tiếp tục đau khổ vì con người nghĩ rằng hoàn 
cảnh bị quy định như một hiển nhiên của 
cuộc sống. 
Cuộc sống của giới tự nhiên thứ hai tràn 
ngập sự hỗn loạn. Nguyên nhân của sự hỗn 
loạn thật sự nằm trong sự hỗn loạn của chính 
bản thân con người vì con người là chủ thể 
sáng tạo giới tự nhiên thứ hai. Là sai lầm nếu 
muốn chấm dứt sự hỗn loạn từ bên ngoài con 
người chứ không phải là từ bên trong con 
người. Sự hỗn loạn của xã hội là kết quả chứ 
không phải nguyên nhân. Thông minh tức là 
đi giải quyết cái nguyên nhân chứ không phải 
là chạy theo kết quả. Muốn chấm dứt sự hỗn 
loạn bên trong mình, con người phải mang 
đến sự bất tỉnh của ý thức. Ý thức bất tỉnh là 
sự tê liệt hoàn toàn của tâm trí khổ đau, thù 
hận; là sự bất động của một tâm trí chia rẽ, 
giằng xé; là trạng thái loại bỏ mọi sự xung 
đột, thoát khỏi mọi quy định của tri thức, 
kinh nghiệm. Khi đã vượt thoát khỏi mọi quy 
định thì giới tự nhiên thứ hai - sản phẩm của 
những con người với bản chất không xung 
đột tất yếu là một xã hội không xung đột. 
Con người luôn tích lũy những kinh 
nghiệm, sự hiểu biết để có thể thích nghi và 
sống tốt. Những kinh nghiệm gắn với niềm 
vui và nổi đau khổ dần in sâu trong tâm trí 
chi phối mạnh mẽ đến cuộc sống sau đó. Đời 
sống và những đau khổ của nó đều là những 
thói quen, để vượt qua những thói quen ấy 
con người phải nếm trải, để rồi lại hình thành 
những thói quen mới. Chúng ta muốn dừng 
các thói quen, chúng ta lại hình thành thói 
quen mới, thói quen đàn áp các thói quen. 
Diễn tiến ấy không bao giờ dừng lại chừng 
nào mà cái ta muốn, vẫn còn, cái ta hướng 
đến, vẫn còn. Tức là trong diễn tiến của sự 
hình thành các thói quen, tâm trí tự do hoàn 
toàn bị cản trở. “Một trí não mất trật tự đang 
ra sức khám phá liệu có một hành động 
chính xác, đúng đắn không. Và nó sẽ tìm thấy 
một hành động ngược lại, tức là không chính 
xác, đúng đắn, một hành động gây hỗn loạn, 
không toàn diện. Thế nên, ta phải lập lại trật 
tự trong cái thế giới hiện thực mà ta đang 
sống.”[3, 67]. Chỉ có thể là sự chấm dứt. 
Chấm dứt sự hình thành các thói quen, chấm 
dứt sự đàn áp ở bên trong chính chúng ta thì 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI SỐ 27+28 – 05/2018 
259 
tâm trí tự do mới có thể khởi phát. Chấm dứt 
thói quen là phải hiểu nó và vượt qua nó. 
Thực hành tâm trí tự do là nhìn vào bên trong 
với sự kiên nhẫn và tỉnh táo. Trong sự kiên 
nhẫn và tỉnh táo, chiếc lồng sắt của những tư 
tưởng sẽ tan chảy và ta sẽ thấy được một tự 
do mới. Vết sẹo của những trải nghiệm là 
không tránh khỏi nhưng đó tất nhiên là sự tự 
do hoàn toàn khác với những kinh nghiệm 
đau khổ, hoàn toàn khác với một ý thức chia 
rẽ, phân mảnh. 
Theo Krishnamurti, điều kiện để có tâm 
trí tự do là ý thức thống nhất, không phân 
chia. Đó là khi ta nhận thức được toàn bộ ý 
thức của ta bao gồm sự tư duy và không tư 
duy, niềm vui và nỗi buồn, yêu thương và thù 
hận, phấn khích và sợ hãi, cảm xúc và sự vô 
cảm, dục vọng và an nhiên, tiềm thức và sự 
chú ý, .v.v Con người cần phải nhận thức 
được điều kiện của chính mình. Tất cả những 
gì bên trong ta có hai hình thái, một hình thái 
hiển lộ tương đối rõ ràng trước nhận thức 
như suy nghĩ, cảm xúc, và các hoạt động 
hàng ngày; một hình thái ẩn sâu bên trong là 
những tiềm thức, nó rất xa lạ đối với nhận 
thức của ta, nó thỉnh thoảng đến rồi đi, nó 
đến trong những trực giác hay giấc mơ. Nó 
chiếm một góc nhỏ của ý thức nhưng chính 
nó là phần lớn cuộc đời của ta. Ta chìm đắm 
trong hình thái của sự hiển lộ rõ ràng, của 
những suy nghĩ, cảm xúc hàng ngày và xa lạ 
với hình thái vốn chiếm phần lớn cuộc đời ta. 
Thậm chí ta cũng chẳng có một phương cách 
nào để có thể đi được vào trong nó. Sự phân 
chia như thế làm cho con người bế tắc, tâm 
trí tự do bị giam cầm. 
Giải phóng tâm trí tự do là chấm dứt tình 
trạng phân chia, đi vào các tầng sâu của ý 
thức, đạt đến sự thấu triệt, làm cho cái tiềm 
thức trở nên rõ ràng như những suy nghĩ và 
xúc cảm hàng ngày. Khi ấy, toàn bộ ý thức là 
một, thống nhất và giải phóng. 
Ý thức ta là cuộc đời ta, nhưng ý thức lại 
bị phân mảnh, nên ta sống cuộc đời này bằng 
những mảnh vỡ. Ở trường học, ta sống cuộc 
đời của một sinh viên hoặc một giáo viên; ở 
nhà, ta sống cuộc đời của một người cha 
hoặc là mẹ hay là người con; ở nơi làm việc, 
ta sống cuộc đời của một nhân viên hoặc là 
một thủ trưởng. Tâm trí ta bị phân mảnh, 
không thể nhận thức đủ ý thức. Ta phải khám 
phá tất cả những mảnh vỡ của tâm trí, từng 
tầng một, từng lớp một, tạo ra một tâm trí 
thống nhất, thấu suốt, một tâm trí luôn chú ý. 
Krishnamurti cũng phân biệt rõ sự chú ý 
và tập trung. Sự khác biệt căn bản là ở chỗ 
tập trung có loại trừ còn chú ý thì không có 
loại trừ. Khi ta tập trung vào một mảnh vỡ 
của chính cuộc đời ta, ta đã loại trừ những 
mảnh đời khác của ta, làm cho ta không thể 
hiểu hết cuộc sống. 
Nhưng khi ta chú ý, mọi mảnh vỡ cuộc 
đời ta hiện ra và được nối kết, và toàn bộ ý 
thức trở thành một chỉnh thể không phân 
mảnh. Ta bắt đầu sống một cuộc đời trọn vẹn 
với tất cả sự tinh tế, nhạy cảm và thấu triệt. 
3. Kết luận 
Có thể nói, lý luận nhận thức của 
Krishnamurti mang đến sự mới mẻ trong 
cách tiếp cận. Mục đích mà ông đặt ra trong 
việc nhận thức không phải là thiên đường 
hay cõi niết bàn mà chính là thực tại cuộc 
sống. Giải thoát không phải là con đường đi 
ra mà phải là con đường đi vào chính bản 
thân mình với một tâm trí tự do. Chân lý 
không ở đâu xa mà nó chính là thực tại ngay 
bên trong con người. Ý thức bị phân mảnh 
làm cuộc đời con người chia tách, tâm trí con 
người rơi rớt không có điểm tựa. Tâm trí 
càng cố bám víu vào học thuyết, giáo lý, kinh 
nghiệm, ... càng bế tắc, u buồn, thất vọng và 
khổ đau. Chỉ có mạnh mẽ đối diện cuộc đời, 
khám phá các tầng sâu thẳm của ý thức, thấu 
triệt để có thể xóa bỏ mọi ranh giới trong ý 
thức, con người đạt đến sự chú ý tối thượng. 
Chỉ có sự chú ý tối thượng mới có thể giữ 
được tâm trí tư do, phá bỏ được hiện trạng 
phân mảnh bên trong, đạt đến hạnh phúc. 
Krishnamurti đã có những đóng góp 
quan trọng trong việc đưa phép biện chứng 
vào lý luận nhận thức về tâm thức. Ông đã 
phân tích rất thành công những mâu thuẫn 
nội tại của tâm thức để chỉ ra nguồn gốc, 
động lực vận hành của nó. Trong phạm vi đối 
tượng nghiên cứu của chính mình, ông là một 
nhà biện chứng thông minh. Nhưng vì quá đề 
cao yếu tố tâm thức bên trong con người mà 
Krishnamurti có khuynh hướng phủ nhận vai 
trò của truyền thống và các tổ chức chính trị - 
260 
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 27+28, May 2018 
xã hội trong việc giải quyết các mâu thuẫn 
của xã hội, giải quyết những xung đột trong 
chính nội tâm con người. Nhóm tác giả cho 
rằng, việc giải quyết tất cả những vấn nạn mà 
con người đang gặp phải (những xung đột xã 
hội và những xung đột của nội tâm) cần thiết 
phải là sự tham gia đồng thời của khả năng tự 
nhận thức của con người với sự trợ giúp của 
truyền thống và các tổ chức chính trị - xã hội. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Krishnamurti tinh yếu (2005), Nguyễn Ước biên 
dịch, NXB Văn học 
[2] Krishnamurti(2008), Đánh thức trí thông minh, 
Ban dịch thuật Thiện Tri Thức, Nxb. Văn hóa 
Sài Gòn. 
[3] Krishnamurti(2010), Chân lý và thực tại, Đào 
Hữu Nghĩa dịch, Nxb. Thời Đại, Hà Nội. 
[4] Krishnamurti(2010), Lửa giác ngộ, Đào Hữu 
Nghĩa dịch, Nxb. Thời Đại, Hà Nội. 
[5] Krishnamurti(2010), Giáo dục và ý nghĩa cuộc 
sống, Đào Hữu Nghĩa dịch, Nxb. Thời Đại, Hà 
Nội. 
[6] Krishnamurti(2010), Chấm dứt thời gian, Đào 
Hữu Nghĩa dịch, Nxb. Thời Đại, Hà Nội. 
[7] Krishnamurti(2016), Tự do đầu tiên và cuối 
cùng, Nguyễn Minh Lý dịch, Nxb. Hồng Đức, 
Hà Nội. 
 Ngày nhận bài: 15/3/2018 
 Ngày chuyển phản biện: 19/3/2018 
 Ngày hoàn thành sửa bài: 9/4/2018 
 Ngày chấp nhận đăng: 17/4/2018 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_quan_diem_co_ban_cua_krishnamurti_ve_nhan_thuc.pdf