Một số giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học cho cán bộ, giảng viên ở Đại học Thái Nguyên
Vai trò và vị trí của giáo dục đại học (GDĐH) nói
chung và các trường đại học (ĐH) nói riêng ngày càng
trở nên quan trọng. Các trường ĐH không chỉ có vai trò
chủ chốt trong lĩnh vực đào tạo nhân lực khoa học và
công nghệ trình độ cao mà thực sự đã và đang trở thành
các trung tâm nghiên cứu lớn về sản xuất tri thức mới và
chuyển giao công nghệ hiện đại, góp phần vào sự phát
triển bền vững. Một trường ĐH hiện đại, chất lượng cao,
phải là nơi giao thoa của ba chức năng: đào tạo, nghiên
cứu khoa học (NCKH) và phục vụ xã hội, trong đó
NCKH là yếu tố có quyết định tới chất lượng của hai
chức năng còn lại. Việc kết hợp chặt chẽ của ba chức
năng này hiện nay cũng là xu hướng cơ bản trong chiến
lược phát triển GDĐH của các nước trên thế giới. Nghị
quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính
phủ về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ĐH đã đưa
ra mục tiêu cụ thể của GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006-
2020 trong hoạt động khoa học và công nghệ phải đạt
“Nâng cao rõ rệt quy mô và hiệu quả hoạt động khoa
học và công nghệ trong các trường ĐH. Các trường ĐH
lớn phải là các trung tâm NCKH mạnh của cả nước,
nguồn thu từ hoạt động khoa học và công nghệ, sản xuất
và dịch vụ đạt tối thiểu 25% tổng nguồn thu của các
trường ĐH vào năm 2020” [1], cũng như quan tâm đến
việc nâng dần vị thế của các trường ĐH nước ta trong
xếp hạng các trường ĐH của thế giới. Quyết định số
121/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy
hoạch mạng lưới các trường ĐH và cao đẳng giai đoạn
2006-2020 có đặt mục tiêu đến năm 2020 “Việt Nam có
1 trường ĐH được xếp hạng trong số 200 trường ĐH
hàng đầu thế giới” [2].
ĐH Thái Nguyên là ĐH định hướng nghiên cứu đa
ngành, đa lĩnh vực; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo với
NCKH và chuyển giao khoa học công nghệ (KHCN)
trong các lĩnh vực: khoa học tự nhiên; khoa học xã hội -
nhân văn; khoa học kĩ thuật công nghiệp, nông lâm
nghiệp, chăn nuôi, thú y, thủy sản; khoa học sự sống;
khoa học môi trường; khoa học Y - dược; công nghệ
thông tin và truyền thông. NCKH và chuyển giao công
nghệ của ĐH Thái Nguyên được triển khai ở 7 cơ sở giáo
dục ĐH thành viên, 2 khoa trực thuộc, 1 trường cao đẳng,
3 viện nghiên cứu trực thuộc ĐH và 5 trung tâm nghiên
cứu, chuyển giao KHCN. Các kết quả NCKH của ĐH
Thái Nguyên đã góp phần không nhỏ vào việc đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời tạo ra các sản
phẩm KHCN, phục vụ đắc lực nhu cầu phát triển kinh tế,
xã hội của vùng trung du miền núi phía Bắc và trong cả
nước. Tuy nhiên, tỉ lệ đề tài NCKH tạo ra các sản phẩm
có hàm lượng khoa học cao còn thấp, các sản phẩm ứng
dụng có ý nghĩa với sản xuất còn hạn chế nên rất khó
thương mại hóa sản phẩm, chuyển giao cho doanh
nghiệp. Bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần nâng
cao chất lượng nghiên cứu khoa học cho cán bộ, giảng
viên ở ĐH Thái Nguyên
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học cho cán bộ, giảng viên ở Đại học Thái Nguyên
ung tâm nghiên cứu, phân cấp quản lí để một mặt tránh phân tán như hiện nay. Mặt khác, ban hành quy định về tiêu chí đối với từng loại viện, trung tâm, phòng thí nghiệm để đầu tư có trọng điểm. + Có kế hoạch và phương án cụ thể để chuyển đổi các đơn vị nghiên cứu thành: Các tổ chức khoa học và công nghệ tự trang trải tài chính hoặc các doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo tinh thần của Nghị định số 115/2005/ NĐ-CP. Thực tế, các đơn vị nghiên cứu của ĐH Thái Nguyên vẫn hoạt động dựa vào đảm bảo của ngân sách nhà nước, chỉ có duy nhất một viện đã tự trang trải được tài chính theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP. Chính vì vậy, ĐH Thái Nguyên phải có lộ trình chuyển đổi 4 viện còn lại theo tinh thần của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP và đối với các viện thành lập mới phải có quy chế hoạt động ngay theo Nghị định này. + Ban hành quy chế quy định về nguyên tắc xây dựng và hoạt động của các viện, trung tâm, cộng tác viên của các viện, để tạo ra cơ sở pháp lí của sự liên thông giữa hệ thống đào tạo (các đơn vị đào tạo) và hệ thống các đơn vị NCKH. Tạo sự thông thoáng và gắn bó về mặt tổ chức và quản lí cho hai loại cán bộ ở hệ thống nghiên cứu với hệ thống đào tạo bằng những quy định chi tiết và cụ thể, tránh hiện tượng trung tâm khép kín và thậm chí nằm ngoài cuộc như hiện nay. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi thì hệ thống đào tạo và hệ thống nghiên cứu của ĐH Thái Nguyên đang hoạt động tách rời một cách rõ rệt. Các đơn vị nghiên cứu của ĐH Thái Nguyên chỉ có nhiệm vụ nghiên cứu còn nhiệm vụ đào tạo thuộc về các trường ĐH thành viên của ĐH Thái Nguyên. + Cần phải có quy chế thiết lập sự hài hoà, hợp tác cùng có trách nhiệm và cùng có lợi giữa các viện, trung tâm nghiên cứu và các cấp quản lí (Trường, Khoa). Điều này sẽ phát huy tác dụng không chỉ trong hoạt động NCKH mà còn hiệu quả trong công tác đào tạo sau ĐH, lực lượng các học viên cao học và nghiên cứu sinh là nguồn nhân lực chủ yếu trong các phòng nghiên cứu, nhóm nghiên cứu. + Đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc hiện đại cho các viện, các trung tâm nghiên cứu. Mặc dù, ĐH Thái Nguyên đã chú trọng ưu tiên đầu tư tập trung cho một số phòng thí nghiệm như Viện Khoa học sự sống, Bệnh viện thực hành, Phòng Thí nghiệm huyết học - miễn dịch và chẩn đoán hình ảnh Trường ĐH Y dược, Viện nghiên cứu tự động hóa và công nghệ cao theo hướng đồng bộ và chuyên sâu. Tuy nhiên, trang thiết bị nghiên cứu, thí nghiệm vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng được kì vọng nâng cao chất lượng NCKH. + Các viện, các trung tâm nghiên cứu quá phân tán và nhỏ. Vì vậy, một mặt trong khi chờ đợi thành lập các viện mới, phải coi thành lập và phát triển các trung tâm, các phòng thí nghiệm (trong quyền hạn của ĐH Thái Nguyên) là chiến lược quan trọng để đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu - triển khai trong tình hình mới. - Về mặt nhân lực của các đơn vị nghiên cứu, cần có số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ đủ mạnh để tiến hành nghiên cứu một cách đồng bộ hướng chuyên môn đã xác định gồm các nhà khoa học có uy tín như giáo sư hay phó giáo sư có tên tuổi làm trưởng nhóm, các nghiên cứu viên (có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân), một số kĩ thuật viên (biên chế, kiêm nhiệm hay hợp đồng), nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên làm khoá luận. Để phát huy hiệu quả làm việc của giảng viên và cán bộ nghiên cứu trong các đơn vị nghiên cứu, ĐH Thái Nguyên cần ban hành quy chế, trong đó quy định rõ nhiệm vụ cho từng loại cán bộ và có cơ chế phối hợp hoạt động trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. 2.2.2. Phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong Đại học Thái Nguyên Các nhóm nghiên cứu mạnh, liên ngành, kết hợp lại một cách linh hoạt, được tăng cường kinh phí và trang thiết bị hiện đại nhất để cùng nhau giải quyết nhiệm vụ KHCN trọng điểm tầm quốc gia, quốc tế, sẽ tạo ra những sản phẩm KHCN xuất sắc. Đó cũng là nơi thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, là nơi gắn kết với các đối tác lớn trong và ngoài nước. Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát cho thấy, hoạt động của nhóm nghiên cứu tại các trường ĐH thành viên thuộc ĐH Thái Nguyên chưa có hiệu quả cao do thiếu các cơ chế quản lí, thiếu kinh phí hỗ trợ cho nhóm nghiên cứu hoạt động. Mặt khác, trưởng/phó của các nhóm nghiên cứu thường kiêm nhiệm các chức vụ lãnh đạo, quản lí trong trường nên thời gian dành cho sinh hoạt chuyên môn nhóm, định hướng, dẫn dắt các thành viên của nhóm nghiên cứu VJE Tạp chí Giáo dục, Số 451 (Kì 1 - 4/2019), tr 17-23 22 không nhiều. Theo kết quả quan sát của chúng tôi, có những nhóm nghiên cứu làm việc nhưng chỉ mang tính hình thức, mỗi người theo một vấn đề riêng lẻ nhưng không tạo tiếng nói chung, hướng đến mục đích chung, cho nên không phát huy được sự hợp tác, trao đổi, chia sẻ ý tưởng với nhau. Điều này ngược lại với xu hướng thế giới, nhóm nghiên cứu là sự bù đắp điểm yếu của nhau, giúp các thành viên tích lũy được kinh nghiệm theo thời gian. Do vậy, chúng tôi nhận thấy, để xây dựng được những nhóm nghiên cứu mạnh trong trường ĐH cần phải xuất phát từ hai phía. - Phía các nhà khoa học: Phải có tâm huyết và có mong muốn được cống hiến, được nghiên cứu, được làm việc nhóm, có năng lực; trình độ và có uy tín khoa học cao. Trong đó, người nhóm trưởng đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của nhóm nghiên cứu nên trưởng nhóm nghiên cứu phải biết tập hợp được đội ngũ, xác định được hướng đi và hướng phát triển cho nhóm và phải năng lực tổ chức, biết hi sinh, có khả năng ngoại ngữ và tổ chức làm việc của nhóm một cách phù hợp và khoa học. - Phía lãnh đạo trường ĐH thành viên của ĐH Thái Nguyên: Phải có tầm nhìn và chính sách thỏa đáng đầu tư cho nhóm nghiên cứu. Nếu lãnh đạo nhà trường quan tâm, nhận thức được vai trò quan trọng của các nhóm nghiên cứu mạnh trong đào tạo và nghiên cứu, quan tâm đầu tư và vun đắp cho các nhà khoa học và các nhóm nghiên cứu, gắn đào tạo với nghiên cứu thì nhất định công tác đào tạo của trường ĐH sẽ có chất lượng tốt và các nhóm nghiên cứu trong trường sẽ phát triển nhanh và mạnh, tiến tới các nghiên cứu quốc tế. Do vậy, cần phải nâng cao nhận thức của giảng viên về tầm quan trọng của nhóm nghiên cứu so với tư duy lợi thế cá nhân cũng như vai trò của nhóm nghiên cứu trong việc tạo ra uy tín, thương hiệu cho trường ĐH; Ban hành cơ chế quản lí cũng như hỗ trợ về cơ sở vật chất/kinh phí cho nhóm nghiên cứu hoạt động hiệu quả. Đối với các nhóm nghiên cứu mới thành lập, các nhà quản lí cần hỗ trợ trong việc xác định mục tiêu rõ ràng và phổ biến đến các thành viên trong nhóm. 2.2.3. Nâng cao năng lực nghiên cứu cho đội ngũ cán bộ, giảng viên của Đại học Thái Nguyên Nâng cao năng lực nghiên cứu cho đội ngũ, giảng viên trong thời gian tới không chỉ góp phần nâng cao chất lượng NCKH mà còn từng bước giúp ĐH Thái Nguyên thực hiện đào tạo chất lượng cao thông qua việc gắn kết chặt chẽ hoạt động đào tạo với NCKH, từ đó tiến dần tới các tiêu chí của ĐH nghiên cứu thế giới. Để đạt được điều đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cụ thể sau: - Giao chỉ tiêu đào tạo cụ thể số lượng cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sĩ theo từng năm về cho các trường ĐH thành viên. Điều này, sẽ góp phần nâng tổng số đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ cao trong ĐH Thái Nguyên. - Thực hiện chuẩn hóa năng lực ngoại ngữ cho cán bộ, giảng viên là yếu tố số lượng cũng như chất lượng các bài báo quốc tế trong thời gian tới. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, thì có đến 71,8% cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, đây là lí do chính làm cho số lượng bài báo quốc tế trở nên ít ỏi trong thời gian qua. - Ban hành quy định về cơ chế giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ tiềm năng cho cán bộ khoa học trẻ, các nhóm sinh viên giỏi trong một số trường ĐH thành viên và các viện nghiên cứu trọng điểm thuộc ĐH Thái Nguyên. Việc làm này một mặt tạo cơ hội cho đội ngũ cán bộ khoa học trẻ và các sinh viên giỏi được tham gia NCKH, mặt khác tận dụng được lượng chất xám đáng kể của đội ngũ này để nâng cao chất lượng NCKH của ĐH. - Đẩy mạnh hợp tác trao đổi nghiên cứu giữa các trường ĐH, các viện, trung tâm nghiên cứu thông qua việc phối hợp tổ chức các hội thảo, hội nghị khoa học. Việc làm này tạo cơ hội cho đội ngũ cán bộ, giảng viên trong ĐH được học hỏi thêm kinh nghiệm nghiên cứu của nhau. - Để nâng cao năng lực nghiên cứu và làm cho đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sĩ, đặc biệt là những tiến sĩ trẻ mới bảo vệ trở thành chuyên gia, ĐH Thái Nguyên nên ban hành quy định bắt buộc người có học vị tiến sĩ phải tham gia nghiên cứu, tích cực thực hiện các đề tài khoa học và công nghệ. - Có cơ chế chính sách đặc biệt để lôi cuốn được đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ quốc tế đến hợp tác khoa học với ĐH Thái Nguyên để nâng cao năng lực nghiên cứu cho đội ngũ cán bộ, giảng viên của ĐH Thái Nguyên. Đồng thời, cần có cơ chế khen thưởng rõ ràng, theo định mức để tạo ra tính hấp dẫn cho hoạt động NCKH sẽ góp phần tạo hứng thú, say mê ở đội ngũ cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên. - Cùng với cơ chế khen thưởng thì mỗi trường ĐH thành viên cũng cần tạo được một môi trường khoa học năng động thông qua các hình thức giải thưởng khoa học và công nghệ để tôn vinh các nhà khoa học, nghiên cứu viên có thành tích xuất sắc trong hoạt động NCKH (Chẳng hạn: Giải thưởng đơn vị nghiên cứu của năm; Giải thưởng giảng viên xuất sắc của năm...). Có thể tham khảo mô hình của một số trường ĐH trên thế giới: dành một khoản ngân sách riêng cho những giảng viên có kết quả nghiên cứu được công nhận rộng rãi ở trong nước và quốc tế. Số tiền này tỉ lệ thuận với số công trình công bố trong năm và đảm bảo cho họ có thể trang trải cho việc tham gia các Hội thảo trong nước và quốc tế. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 451 (Kì 1 - 4/2019), tr 17-23 23 2.2.4. Tăng cường và đa dạng hóa nguồn kinh phí cho hoạt động khoa học công nghệ Với một ĐH mà đào tạo thông qua nghiên cứu và nghiên cứu để đào tạo chất lượng cao như ĐH Thái Nguyên hiện nay thì cần tăng tỉ trọng đầu tư cho nghiên cứu, phải được tăng lên thoả đáng so với tỉ lệ đầu tư cho thiết bị và chuyển giao công nghệ. Kết quả khảo sát 185 cán bộ, các nhà khoa học cho thấy có đến 178/185 người (chiếm 96,2%) cho rằng cần phải tăng cường nguồn kinh phí cho hoạt động KHCN. Kinh phí dành cho hoạt động KHCN ở ĐH Thái Nguyên hiện nay còn khá khiêm tốn (chưa đến 3% trên tổng kinh phí của ĐH Thái Nguyên). Đề tài cấp ĐH Thái Nguyên do đơn vị quản lí giai đoạn 2015-2015 trung bình là 30 triệu/đề tài, cấp cơ sở là 5 triệu/đề tài, đây là những con số còn quá khiêm tốn so với yêu cầu tiến tới trình độ khoa học quốc tế. Các kinh phí trên chỉ hỗ trợ cho thuê khoán chuyên môn trong nước, chưa đủ để làm các thí nghiệm đắt tiền và đặc biệt là thí nghiệm, báo cáo khoa học ở nước ngoài và xây dựng các nhóm nghiên cứu nhằm tập hợp lực lượng, thu hút cán bộ giỏi về công tác. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp trong thời gian tới là: - Tăng kinh phí cho hoạt động nghiên cứu, tất nhiên không phải tăng kinh phí một cách “bình quân chủ nghĩa” mà đầu tư “có trọng điểm” những nhiệm vụ theo các hướng khoa học và công nghệ mũi nhọn, ưu tiên do Giám đốc/Hiệu trưởng xem xét quyết định trên cơ sở tư vấn của Hội đồng Khoa học Đào tạo và các hội đồng ngành/liên ngành của đơn vị. Tăng mức kinh phí cho các đề tài, đặc biệt là các đề tài trọng điểm cấp Bộ/cấp ĐH Thái Nguyên để đầu tư tập trung, đủ lực tạo ra những trường phái khoa học mạnh, những sản phẩm công nghệ có giá trị cao. Mặt khác, tăng kinh phí góp phần khuyến khích được người đảm nhiệm đề tài có “tâm” và đủ “tầm”. - Phải có kế hoạch, chiến lược tăng dần mức kinh phí dành cho hoạt động khoa học và công nghệ. Trước mắt ĐH Thái Nguyên cần chỉ đạo các cơ sở GDĐH thành viên, các đơn vị trực thuộc thực hiện nghiêm chỉnh việc trích kinh phí cho hoạt động khoa học và công nghệ theo Nghị định số 99/2014/NĐ-CP là hằng năm, dành tối thiểu 5% kinh phí từ nguồn thu hợp pháp của cơ sở GDĐH để đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học và công nghệ ở cơ sở GDĐH; dành tối thiểu 3% kinh phí từ nguồn thu học phí của cơ sở GDĐH để cho sinh viên và người học hoạt động NCKH. - Cần có kế hoạch khai thác các nguồn kinh phí khác như: Kinh phí sự nghiệp kinh tế (xây dựng cơ bản và điều tra cơ bản) từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài Nguyên và Môi trường và các bộ khác; từ các doanh nghiệp và địa phương. 3. Kết luận Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động KHCN của ĐH Thái Nguyên trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, hàm lượng khoa học từ các kết quả nghiên cứu chưa cao, được thể hiện ở: số lượng đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ còn hạn chế; ứng dụng các kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp, chưa được nhân rộng và chưa đáp ứng được nhu cầu trong đào tạo; phần lớn các nhiệm vụ chuyển giao công nghệ còn nhỏ lẻ, phạm vi ảnh hưởng còn hạn chế và chưa tạo hiệu quả rõ rệt trong sản xuất; tỉ trọng nguồn thu từ hoạt động KHCN chưa cao; việc khai thác các nguồn kinh phí khác nhau cho hoạt động KHCN còn thiếu linh hoạt, hiệu quả. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp góp phần tăng cường hàm lượng khoa học cho hoạt động KHCN của ĐH Thái Nguyên trong thời gian tới, góp phần làm hoạt động KHCN tại cơ sở sẽ đạt được những chuyển biến vượt bậc cả về số lượng cũng như chất lượng. Tài liệu tham khảo [1] Chính phủ (2005). Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. [2] Thủ tướng Chính phủ (2007). Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/07/2007 về Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020. [3] Trần Thị Hồng (2013). Giải pháp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội tại Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, số 112, tr 15-19. [4] Nguyễn Văn Tuấn (2011). Đi vào nghiên cứu khoa học. NXB Thành phố Hồ Chí Minh. [5] Vũ Cao Đàm (2003). Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. NXB Khoa học và Kĩ thuật. [6] Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2013). Các giải pháp đẩy mạnh nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. [7] Nguyễn Trung Kiền (2018). Một số biện pháp nâng cao hứng thú nghiên cứu khoa học cho sinh viên sư phạm Trường Đại học Vinh. Tạp chí Giáo dục, số 438, tr 18-22. [8] Đặng Thị Ngọc Phương (2016). Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên khoa Giáo dục mầm non Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. Tạp chí Giáo dục, số 373, tr 20-23. [9] Lưu Xuân Mới (2003). Phương pháp luận nghiên cứu khoa học. NXB Đại học Sư phạm.
File đính kèm:
- mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_nghien_cuu_khoa_hoc_cho.pdf