Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions

Abstract: Distance and online education are popular training modes in the era of the

Fourth Industrial Revolution and open education. Accreditation is one of the approaches

that many countries across the world have implemented to assure the quality of higher

education. This paper investigates the rationale and future directions for quality assurance

and accreditation of distance education programs in Vietnam. First, the paper presents

concepts of distance education, quality assurance and accreditation of distance education.

Next, the paper reviews experiences of implementing quality assurance and accreditation

of distance education from several countries in the world. Third, the paper analyses the

rationale for conducting accreditation of distance education programs in Vietnam. Finally,

the paper proposes three groups of recommendations for the national quality assurance

organizations, accreditation agencies and higher education institutions to successfully

implement the quality assurance and accreditation of distance education in Vietnam.

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 1

Trang 1

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 2

Trang 2

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 3

Trang 3

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 4

Trang 4

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 5

Trang 5

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 6

Trang 6

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 7

Trang 7

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 8

Trang 8

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 9

Trang 9

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 1620
Bạn đang xem tài liệu "Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions

Quality assurance and accreditation of distance education programs in Vietnam: Rationale and future directions
 đại học tiến 
hành đào tạo. Tuy nhiên, quy mô đào tạo từ xa 
ở nước ta đã giảm sút trong vòng ba năm gần 
đây. Theo thống kê tại thời điểm tháng 10/2012, 
cả nước có 161.047 sinh viên theo học các 
chương trình đào tạo từ xa (chiếm 6% so với 
tổng số sinh viên cả nước) thì đến tháng 
10/2016 chỉ có 70.425 sinh viên (chiếm dưới 
5% so với tổng số sinh viên cả nước) và chỉ có 
17 trong số 21 trường đại học được phép tiến 
hành đào tạo từ xa tuyển sinh được. Tỉ lệ sinh 
viên theo học các nhóm ngành cụ như kinh 
doanh - quản lý: 36%, khoa học xã hội: 41%, 
giáo dục: 15%, kỹ thuật - công nghệ: 9% 
[16, 17]. 
Các chuyên gia về giáo dục cho rằng một 
trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự 
giảm sút quy mô tuyển sinh đào tạo từ xa là do 
chất lượng của loại hình đào tạo này chưa được 
N.H. Cuong, L.M. Phong / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 7 
xã hội thừa nhận. Mà lý do căn bản là từ phía 
các trường đại học. Nhiều trường chưa thực sự 
đầu tư nhân lực, công sức, tài chính để xây 
dựng học liệu, phát triển công nghệ đào tạo từ 
xa. Do đó, không ít trường đã dùng nguyên tài 
liệu, giáo trình đào tạo chính quy tập trung để 
giảng dạy từ xa. Ngoài ra, phần lớn đội ngũ 
giảng viên cơ hữu tham gia đào tạo từ xa chưa 
được đào tạo bài bản, chưa có nghiệp vụ và 
phương pháp giảng dạy phù hợp với loại hình 
này. Phương pháp kiểm tra đánh giá không phù 
hợp với loại hình đào tạo từ xa, việc tổ chức thi 
còn chưa nghiêm túc, khách quan cũng là các 
nguyên nhân khiến nhiều nhà tuyển dụng lao 
động không tuyển dụng những người tốt nghiệp 
các chương trình đào tạo từ xa [18]. 
Để xã hội, người tuyển dụng lao động tin 
tưởng vào chất lượng của loại hình đào tạo từ 
xa thì cơ quan quản lý nhà nước cần triển khai 
các biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế, 
bất cập và chấn chỉnh, xử lý những hiện tượng 
tiêu cực. Một trong những giải pháp mà nhiều 
chuyên gia đề xuất là Bộ Giáo dục và Đào tạo 
cần ban hành văn bản cụ thể về đảm bảo chất 
lượng đào tạo từ xa, đồng thời tiến hành kiểm 
định chất lượng tất cả các chương trình đào tạo 
từ xa trên cả nước. 
4.2. Quy định và triển khai kiểm định chất 
lượng giáo dục đại học ở Việt Nam 
Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục 
đại học đã chính thức được triển khai ở nước ta 
từ năm 2004 với việc Bộ trưởng Bộ Giáo dục 
và Đào tạo ban hành Quy định tạm thời về kiểm 
định chất lượng trường đại học (Quyết định số 
38/QĐ-BGDĐT ngày 02/12/2014). kiểm định 
chất lượng ở Việt Nam là bắt buộc đối với tất cả 
các cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo đại 
học (Luật Giáo dục đại học, Điều 49 khoản 2). 
Để triển khai các quy định của Quốc hội và 
Chính phủ về kiểm định chất lượng giáo dục, 
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các văn 
bản về quy trình và chu kỳ kiểm định chất 
lượng cơ sở giáo dục đại học và chương trình 
đào tạo, các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng 
trường đại học và chương trình đào tạo các 
trình độ của giáo dục đại học, quy định về tổ 
chức kiểm định chất lượng giáo dục và kiểm 
định viên kiểm định chất lượng giáo dục [19]. 
Cho đến hết tháng 8/2016, kết quả triển 
khai kiểm định chất lượng giáo dục đại học theo 
tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 
được cụ thể là: có 218 trường đại học, học viện 
hoàn thành báo cáo tự đánh giá; 124 trường 
được các tổ chức kiểm định chất lượng đánh giá 
ngoài, trong đó 117 trường được công nhận đạt 
tiêu chuẩn chất lượng. Về kiểm định chất lượng 
chương trình đào tạo, đã có 12 chương trình 
được đánh giá ngoài (trong đó 10 chương trình 
đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng). 
Ngoài ra còn có 06 trường đại học và 107 
chương trình đào tạo được đánh giá hoặc kiểm 
định theo tiêu chuẩn của khu vực, quốc tế 
[20, 21]. 
Về đảm bảo và kiểm định chất lượng đào 
tạo từ xa, Đề án “Phát triển đào tạo từ xa giai 
đoạn 2015-2020” được Thủ tướng Chính phủ 
phê duyệt theo Quyết định số 1559/QĐ-TTg 
ngày 10/9/2015 đã đặt ra mục tiêu cụ thể đến 
năm 2020 phải tiến hành kiểm định tất cả các 
chương trình đào tạo từ xa cấp văn bằng đã 
được cấp phép. Các trường thực hiện đào tạo từ 
xa cũng được khuyến khích tham gia kiểm định 
bởi các tổ chức quốc tế có uy tín. Để triển khai 
Đề án này, ngày 22/6/2016, Bộ Giáo dục và 
Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 431/KH-
BGDĐT thực hiện Đề án “Phát triển đào tạo từ 
xa giai đoạn 2015-2020”, trong đó giao Cục 
Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục (nay 
là Cục Quản lý Chất lượng) chủ trì, phối hợp 
với các đơn vị liên quan xây dựng Thông tư ban 
hành bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương 
trình đào tạo từ xa và các văn bản hướng dẫn 
triển khai. Ngoài ra, Quy chế đào tạo từ xa trình 
độ đại học được ban hành kèm theo Thông tư 
số 10/2017/TT-BGDĐT ngày 28/4/2017 của Bộ 
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nêu rõ 
phải triển khai tự đánh giá chương tình đào tạo 
từ xa, đăng ký tham gia kiểm định chất lượng 
chương trình đào tạo từ xa theo quy định hiện 
N.H. Cuong, L.M. Phong / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 
8 
hành với tổ chức kiểm định chất lượng (Điều 
11, khoản 7). 
5. Một số khuyến nghị 
Theo như phân tích ở trên thì việc kiểm 
định chất lượng đào tạo từ xa là bắt buộc ở 
nước ta và đến hết năm 2020 tất cả các chương 
trình đào tạo từ xa phải được kiểm định chất 
lượng. Trong ba cách thức kiểm định chương 
trình đào tạo từ xa mà thế giới đang thực hiện 
là: (1) sử dụng nguyên bộ tiêu chuẩn đánh giá 
chất lượng chương trình đào tạo tập trung, (2) 
thêm một số tiêu chí vào bộ tiêu chuẩn đánh giá 
chất lượng chương trình đào tạo tập trung, và 
(3) xây dựng một bộ tiêu chuẩn riêng biệt, thì 
Việt Nam chọn cách thức thứ 3 - xây dựng một 
bộ tiêu chuẩn mới để kiểm định chất lượng các 
chương trình đào tạo từ xa. Trong phần này, 
chúng tôi sẽ trình bày một số khuyến nghị đối 
với việc xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá chất 
lượng và triển khai kiểm định chất lượng 
chương trình đào tạo từ xa trong thời gian tới. 
Ba nhóm khuyến nghị được đưa ra đối với cấp 
quản lý nhà nước về đảm bảo và kiểm định chất 
lượng, tổ chức kiểm định chất lượng và cơ sở 
giáo dục có đào tạo từ xa. 
5.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước 
Đối với cơ quản quản lý nhà nước về đảm 
bảo và kiểm định chất lượng giáo dục, mà cụ 
thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo thì điều quan 
trọng nhất là phải tiến hành xây dựng và ban 
hành bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương 
trình đào tạo từ xa. Bộ tiêu chuẩn này cần đảm 
bảo những tiêu chí thể hiện sự quản lý nhà nước 
về giáo dục từ xa, đồng thời phải có những tiêu 
chí tiếp cận với xu thế khu vực và quốc tế. Ban 
soạn thảo có thể tham khảo các bộ tiêu chuẩn 
kiểm định từ xa của các nước phát triển trên thế 
giới như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và 
Australia. Trong đó, bộ công cụ đảm bảo chất 
lượng đào tạo trực tuyến do TEQSA, Australia 
biên soạn để áp dụng cho các nền kinh tế APEC 
là nguồn tham khảo có giá trị. Bộ tiêu chuẩn 
đánh giá chất lượng chương trình đào tạo từ xa 
của Việt Nam cần có những tiêu chí đặc thù của 
đào tạo từ xa như hạ tầng công nghệ thông tin, 
nguồn học liệu phục vụ đào tạo từ xa, năng lực 
của giảng viên và cán bộ hỗ trợ đào tạo từ xa, 
tương tác giữa giảng viên và học viên, hỗ trợ 
sinh viên, và phương pháp đánh giá phù hợp. 
Ngoài việc ban hành bộ tiêu chuẩn đánh giá 
chất lượng chương trình đào tạo từ xa, Bộ Giáo 
dục và Đào tạo cũng cần xây dựng tài liệu 
hướng dẫn sử dụng bộ tiêu chuẩn này, chi tiết 
tới từng chỉ báo và minh chứng để các cơ sở 
giáo dục có chương trình đào tạo từ xa, các tổ 
chức kiểm định chất lượng giáo dục và các 
kiểm định viên kiểm định chất lượng thống nhất 
thực hiện. Bên cạnh đó, cần ban hành văn bản 
chỉ đạo việc tổ chức và giám sát các hoạt động 
đảm bảo chất lượng bên trong của các cơ sở 
giáo dục về đào tạo từ xa để đảm bảo rằng hoạt 
động kiểm định chất lượng mang tính quá trình, 
chứ không phải hoạt động kiểm định chất lượng 
mang tính tổng kết như hiện nay. 
5.2. Đối với các tổ chức kiểm định chất lượng 
giáo dục 
Để thực hiện tốt việc đánh giá các chương 
trình đào tạo từ xa, các tổ chức kiểm định chất 
lượng giáo dục cần chú ý đến năng lực chuyên 
môn của đội ngũ kiểm định viên. Cần tổ chức 
các khóa tập huấn để trang bị kiến thức, kỹ 
năng cho các kiểm định viên sẽ tham gia đánh 
giá ngoài các chương trình đào tạo từ xa. Để 
tham gia đánh giá chương trình đào tạo từ xa, 
các kiểm định viên ngoài kinh nghiệm đánh giá 
chương trình đào tạo truyền thống, cần thực sự 
am hiểu về đào tạo từ xa. Vì kiểm định đào tạo 
từ xa hoàn toàn mới mẻ ở nước ta, nên các kiểm 
định viên cần phải được trang bị những kỹ thuật 
và phương pháp để đánh giá chuẩn xác chất 
lượng các chương trình đào tạo từ xa. 
5.3. Đối với các cơ sở giáo dục có thực hiện 
chương trình đào tạo từ xa 
Cơ sở giáo dục có thực hiện chương trình 
đào tạo từ xa cần chuẩn bị nhân lực và vật lực 
để thực hiện tốt các bước trong quy trình kiểm 
định chất lượng chương trình đào tạo. Trước hết 
cần tổ chức tập huấn cho toàn bộ cán bộ quản 
lý, giảng viên, cán bộ hỗ trợ, nhân viên, và sinh 
viên cốt cán về tầm quan trọng và quy trình 
kiểm định chất lượng. Ngay khi bộ tiêu chuẩn 
N.H. Cuong, L.M. Phong / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 9 
đánh giá chất lượng chương trình đào tạo từ xa 
được ban hành, cần thành lập Hội đồng tự đánh 
giá và tiến hành tự đánh giá, viết báo cáo tự 
đánh giá các chương trình từ xa mà trường tổ 
chức đào tạo. Tiếp đó, tổ chức rà soát, bổ sung 
và hoàn thiện các chỉ báo còn chưa hoàn thiện 
thông qua các hoạt động đảm bảo chất lượng 
bên trong, sau đó mớithực hiện đăng ký đánh 
giá ngoài với một tổ chức kiểm định chất lượng 
được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép2. Các 
trường cũng được khuyến khích thực hiện đánh 
giá hoặc kiểm định với một tổ chức nước ngoài 
có uy tín được Bộ Giáo dục và Đào tạo 
công nhận. 
6. Kết luận 
Đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến ngày càng 
trở nên phổ biến trong các hệ thống giáo đại 
học trên thế giới. Hình thức đào tạo này được 
coi là một công cụ hữu hiệu phục vụ việc học 
tập suốt đời. Đào tạo từ xa với việc áp dụng 
công nghệ thông tin là phương thức giáo dục 
hiện đại, phổ biến đến mức độ chủ đạo trong kỷ 
nguyên giáo dục mở và cách mạng công nghiệp 
4.0. Để giáo dục từ xa phát huy được những thế 
mạnh, nhằm đào tạo ra đội ngũ lao động vừa 
làm vừa học có tri thức, kỹ năng thì cần có các 
biện pháp để đảm bảo và nâng cao chất lượng 
hình thức đào tạo này. 
Được sử dụng bởi nhiều quốc gia trên thế 
giới qua nhiều thập kỷ, kiểm định chất lượng đã 
chứng tỏ là một cách tiếp cận đảm bảo chất 
lượng có hiệu quả đối với giáo dục đại học nói 
chung và giáo dục từ xa nói riêng. Với quy định 
kiểm định chất lượng bắt buộc các cơ sở giáo 
dục và chương trình đào tạo đại học, đặc biệt là 
kiểm định xong tất cả các chương trình đào tạo 
từ xa đến năm 2020, cho thấy Việt Nam đang 
thể hiện quyết tâm để đảm bảo chất lượng 
phương thức đào tạo này. Với một hệ thống 
kiểm định chất lượng còn khá non trẻ, chúng ta 
cần nỗ lực và cố gắng nhiều hơn nữa để có thể 
thực hiện được mục tiêu này. Cụ thể là cấp 
quản lý nhà nước cần sớm ban hành bộ tiêu 
_______ 
2 Đến 9/2018 Việt Nam đã có 05 tổ chức kiểm định chất 
lượng giáo dục được thành lập, trong đó có 04 tổ chức 
được cấp phép hoạt động. 
chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo 
từ xa và hướng dẫn phù hợp, các tổ chức kiểm 
định chất lượng cần trang bị kiến thức và kỹ 
năng chuyên biệt về kiểm định từ xa cho đội 
ngũ kiểm định viên, và các cơ sở giáo dục cần 
chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để tiến hành 
kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo 
từ xa đang thực hiện đào tạo. 
Tài liệu tham khảo 
[1] UNESCO, Distance education in Asia and the 
Pacific: country papers, Volume III (Singapore - 
Vietnam), 2009. www.unesco.org/education/pdf/53-
23c.pdf. 
[2] UNESCO, Open and distance learning: trends, 
policy and strategy considerations, 2002. 
63e.pdf. 
[3] Owusu-Boampong, A. & Holmberg, C., Distance 
education in European higher education – the 
potential, UNESCO Institute for Lifelong 
Learning, International Council for Open and 
Distance Education and Study Portals B.V, 2015. 
[4] Australian University, Distance learning Australia, 
2018.
e-learning/. 
[5] O. Darojat, M. Nilson, D. Kaufman, Quality 
assurance in Asian open and distance learning: 
policies and implementation, Journal of Learning 
for Development. Vol. 2, No. 2 (2015) 1. 
[6] I. Jung, C. Latchem, Quality assurance and 
accreditation in distance education and e-learning: 
models, policies and research, Routledge, 
London, 2012. 
[7] Wang, Qi., Quality assurance - best practices for 
assessing online programs, International Journal 
on Elearning. Vol. 5, No. 2 (2006) 265. 
[8] J. Friedman, 10 facts about accreditation in online 
degree programs, U.S.News & World Report, 
February 9, 2017. https://www.usnews.com. 
[9] U.S. Department of Education., Accrediting 
agencies recognized for distance education and 
correspondence education, 2018. 
https://www2.ed.gov. 
[10] The Australasian Council on Open, Distance and 
e-learning (ACODE), Benchmarks for technology 
enhanced learning, ACODE, Canberra, 2014. 
[11] L. Bollaert, NVAO’s accreditation of online 
education in a nutshell, https://www.nvao.net, 2015. 
[12] P. Henderikx, G. Ubachs, Quality assurance and 
accreditation of online and distance higher 
education, https://www.unic.ac.cy, 2017. 
N.H. Cuong, L.M. Phong / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 1-10 
10 
[13] A. Stella, A. Gnanam, Quality assurance in 
distance education: The challenges to be 
addressed, Higher Education. Vol. 47, No. 2 
(2004) 143. 
[14] Malaysian Qualification Agency (MQA), Code of 
practices for open and distance learning, MQA, 
Kuala Lumpur, 2013. 
[15] COL, DEMP & UNESCO, Quality assurance 
toolkit for distance higher education institutions 
and programmes, COL, Vancouver, 2009. 
[16] Vietnamnet, Mở đào tạo từ xa sẽ không cần cấp 
phép,  2017. 
[17] Tertiary Education Quality and Standards Agency 
(TEQSA), Quality assurance of online learning: 
discussion paper, TEQSA, Melbourne, 2017. 
[18] Nhân dân Điện tử, Phát triển đào tạo từ xa đúng 
hướng,  2017. 
[19] Nguyễn Hữu Cương, Một số kết quả đạt được của 
kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam 
và hướng triển khai trong tương lai, Tạp chí Quản 
lý Giáo dục. Tập 9 Số 8 (2017) 7. 
[20] Cục Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào 
tạo, Danh sách các cơ sở giáo dục đại học; các 
trường cao đẳng, trung cấp sư phạm, đã hoàn 
thành báo cáo tự đánh giá, được kiểm định, 2018 
(dữ liệu cập nhật đến ngày 31/8/2018). 
[21] Cục Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào 
tạo, Danh sách các chương trình đào tạo được 
đánh giá/công nhận, 2018 (dữ liệu cập nhật đến 
ngày 31/8/2018). 

File đính kèm:

  • pdfquality_assurance_and_accreditation_of_distance_education_pr.pdf