Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015

Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân. Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp năm

2013 quy định: ‚Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa thế được pháp luật bảo hộ‛. Bảo hộ quyền

thừa kế tức là bảo hộ quyền sở hữu tư nhân hay chỉ khi có quyền sở hữu tư nhân thì mới có quyền

thừa kế. Thừa kế và để lại thừa kế là một quyền cơ bản của các chủ thể trong quan hệ pháp luật

dân sự. Đây là quyền thể hiện tính chất tự do ý chí, tự do định đoạt của chủ thể khi tham gia quan

hệ pháp luật dân sự về thừa kế. Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả phân tích những bất cập

trong quy định về thừa kế của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và đề xuất một số kiến nghị nhằm

hoàn thiện những quy định của pháp luật về thừa kế.

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 trang 1

Trang 1

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 trang 2

Trang 2

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 trang 3

Trang 3

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 trang 4

Trang 4

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 trang 5

Trang 5

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 trang 6

Trang 6

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 trang 7

Trang 7

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015 trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 8860
Bạn đang xem tài liệu "Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015

Một số bất cập trong quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015
mẹ đẻ. Đồng thời, cũng cần quy 
định rằng việc chăm sóc lẫn nhau giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế không nhất thiết phải dựa 
trên cơ sở cùng sống chung với nhau dưới một mái nhà, bởi vì trên thực tế có rất nhiều trường hợp 
người con ở xa (như đi làm xa hoặc có vợ chồng xa) nhưng vẫn luôn quan tâm, thể hiện được tình 
cảm yêu thương lẫn nhau và có những hành động giúp đỡ cha dượng, mẹ kế bằng cách gửi tiền 
cũng như các vật chất khác. Do đó, việc xác định thế nào là chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, 
mẹ con theo tác giả không nên chỉ phụ thuộc vào nơi cư trú của các thành viên trong gia đình. 
2.3 Về hình thức di chúc 
Tại Điều 624 BLDS năm 2015 có nêu: ‚Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài 
sản của mình cho người khác sau khi chết‛; tại Điều 627 BLDS năm 2015 quy định về hình thức 
của di chúc bao gồm hai hình thức là di chúc bằng văn bản và di chúc bằng miệng. Mỗi hình 
thức của di chúc đều phải thỏa mãn những điều kiện nhất định mới được xem là hợp pháp. Trong 
đó, theo quy định tại Khoản 5 Điều 630 BLDS năm 2015, và di chúc miệng chỉ được xem là hợp 
pháp nếu đáp ứng những điều kiện về hình thức sau đây: ‚Nếu người di chúc miệng thể hiện ý 
chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc 
miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong 
thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc 
phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm 
1564 
chỉ của người làm chứng‛. Theo nhóm tác giả, người trong trường hợp tính mạng đang nguy 
hiểm thì được lập di chúc miệng (căn cứ Khoản 1 Điều 629 BLDS năm 2015) mà phải đáp ứng các 
điều kiện nêu trên để hình thành được di chúc hợp pháp thì quá khó khăn. Bởi lẽ, trong trường 
hợp tính mạng bị đe dọa ở địa điểm mà người làm chứng không có đủ điều kiện để ghi chép, ký 
tên hoặc điểm chỉ ngay lập tức và tiến hành thực hiện việc công chứng, chứng thực di chúc trong 
thời hạn 05 ngày làm việc Cụ thể như: A, B và C cùng nhau đi du lịch trên một chiếc thuyền ở 
ngoài xa, bất ngờ một cơn bão lớn ập đến và chiếc thuyền bị sóng đánh mạnh, chìm thuyền. 
Trong ranh giới giữa cái chết và sự sống, A chỉ kịp nói với B và C rằng sau khi chết tài sản sẽ để 
lại cho D. Trường hợp này B và C hoàn toàn chứng kiến và nghe được toàn bộ ý chí đó của A, 
nhưng khi đó trong tình trạng cấp bách và trên biển lớn, B và C không thể tìm thấy được phương 
tiện ghi chép, và nếu B và C không trở về kịp trong vòng 5 ngày ngày thì cũng không thực hiện 
được việc công chứng hoặc chứng thực di chúc nếu có điều kiện ghi chép lại và ký tên hoặc điểm 
chỉ thì di chúc này không có giá trị pháp lý vì theo quy định về hình thức di chúc miệng như trên, di 
chúc miệng của A không đảm bảo về mặt hình thức dù cho có thỏa mãn tất cả các điều kiện còn 
lại như năng lực hành vi, nội dung di chúc theo quy định. Điều này gây ảnh hưởng đến việc thực 
hiện quyền định đoạt tài sản của cá nhân, là một quyền quan trọng của chủ sở hữu tài sản. theo 
quan điểm của nhóm tác giả, pháp luật cần quy định thời điểm bắt đầu tính thời hạn mà những 
người làm chứng có thể ghi chép lại, ký tên hoặc điểm chỉ và công chức hoặc chứng thực di chúc 
trong những trường hợp đặc biệt, không đủ điều kiện để thực hiện theo đúng thời hạn thông 
thường là kể từ thời điểm những người làm chứng có đủ điều kiện thực hiện. 
Như vậy, pháp luật cần điều chỉnh lại thời hạn những người làm chứng có thể ghi chép lại, ký tên 
hoặc điểm chỉ và công chứng hoặc chứng thực di chúc trong những trường hợp đặc biệt. Nếu 
không đủ điều kiện để thực hiện đúng theo thời hạn thông thường, người làm chứng phải chứng 
minh được họ rơi vào tình trạng không có đủ điều kiện thực hiện hai điều kiện trên đảm bảo theo 
thời hạn quy định thông thường[1]. Nhóm tác giả hoàn toàn đồng ý với kiến nghị này bởi lẽ, điều 
này sẽ góp phần nâng cao mức độ đảm bảo quyền định đoạt tài sản cũng như quyền sở hữu tài 
sản hợp pháp của cá nhân và nguyên tắc ưu tiên thực hiện thừa kế theo di chúc trong pháp luật về 
thừa kế. 
2.4 Về trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc 
 Điều 644 BLDS năm 2015 quy định: ‚Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai 
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong 
trường hợp họ không được lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai 
phần ba suất đó, trừ trường hợp họ là người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ 
là những người không có quyền hưởng thừa kế di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của BLDS 
năm 2015. Thứ nhất, con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Thứ hai, con đã thành niên mà 
không có khả năng lao động‛. Điều luật chỉ quy định mức tối thiểu mà những người đương nhiên 
được hưởng thừa kế mà không quy định mức tối đa được hưởng là bao nhiêu. Quy định này có thể 
dẫn đến người đương nhiên được hưởng thừa kế nhiều hơn người thừa kế. Giả sử, ông A không có 
con, chỉ có một người cháu. Ông A kết hôn với bà B nhưng mục đích hôn nhân không đạt được. 
1565 
Ông A xin ly hôn. Trong khi Tòa đang giải quyết việc ly hôn thì ông A viết di chúc cho toàn bộ tài sản 
riêng của mình cho người cháu. Ông A chết. Theo quy định tại Điều 655 BLDS năm 2015 thì bà B 
vẫn được hưởng thừa kế của ông A và theo quy định tại Điều 644 BLDS năm 2015 thì bà B (là vợ) 
được hưởng ít nhất là 2/3 suất của người thừa kế, tức là 2/3 của toàn bộ di sản của ông A – của 
một suất thừa kế. Như vậy, bà B được hưởng 2/3 di sản của ông A và cháu của ông A chỉ được 1/3 
khối di sản mà lẽ ra theo ý chí của ông A thì được hưởng toàn bộ. Nếu điều luật quy định mức độ tối 
đa hoặc quy định không được nhiều hơn một suất thừa kế thực tế được hưởng thì mới phù hợp [10]. 
Theo nhóm tác giả, pháp luật cần đưa ra quy định đối với người đương nhiên được hưởng thừa kế 
tối đa được hưởng bao nhiêu để đảm bảo công bằng cho người được hưởng thừa kế theo di chúc. 
Tránh trường hợp người đương nhiên được hưởng thừa kế nhiều hơn người thừa kế. 
2.5 Về điều kiện từ chối nhận di sản 
Theo Điều 645 BLDS năm 2015 quy định: ‚Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường 
hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác‛. 
Pháp luật về thừa kế qua các thời kỳ đều quy định điều kiện để từ chối nhận di sản đó là người 
thừa kế không được từ chối nhận di sản nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ về mặt tài sản của 
mình. Bởi lẽ, quyền thừa kế là một quyền tài sản, có thể đem lại cho người thừa kế những lợi ích 
nhất định từ việc nhận di sản thừa kế. Việc người thừa kế từ chối nhận di sản tức là từ bỏ quyền 
sở hữu đối với tài sản của mình có thể xâm phạm đến quyền lợi của chủ thể thứ ba mà người 
thừa kế đang có nghĩa vụ về mặt tài sản. Việc thực hiện từ chối quyền sở hữu như vậy đã vi phạm 
Khoản 2 Điều 160 BLDS năm 2015 về nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu chủ: ‚Chủ sở hữu được 
thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của 
luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền, lợi 
ích hợp pháp của người khác‛. Chính vì thế, pháp luật dân sự không cho phép người thừa kế 
được từ chối nhận di sản để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình và điều này hoàn toàn hợp lý. 
Liên quan đến yêu cầu này, một vấn đề cần lưu ý thêm là thuật ngữ ‚nghĩa vụ tài sản của mình‛ 
cần phải được hiểu đúng. Trong một số trường hợp, thuật ngữ này được hiểu bao gồm cả nghĩa 
vụ tài sản do người chết để lại. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng BLDS năm 2015, tinh thần 
chung của quy định này là không bao gồm nghĩa vụ tài sản do người chết để lại mà chỉ đề cập 
đến nghĩa vụ riêng của người thừa kế. 
So sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy rằng nhìn chung pháp luật các 
nước đều cho phép người thừa kế từ chối nhận di sản. Mặt khác vẫn bảo vệ quyền lợi của chủ nợ 
đối với người thừa kế. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan cho phép chủ nợ có quyền yêu cầu 
hủy bỏ việc từ chối nhận di sản và yêu cầu Tòa án cho phép mình thay thế người thừa kế để nhận 
phần di sản. Phần tài sản còn dư sau thực hiện nghĩa vụ đối với chủ nợ sẽ được trả lại cho con cháu 
của người thừa kế hoặc những người thừa kế khác tùy theo từng trường hợp. BLDS Quebec cho 
phép chủ nợ của người thừa kế từ chối nhận di sản trong thời hạn một năm được quyền yêu cầu 
Tòa án không công nhận việc từ chối này và cho phép họ nhận phần di sản thay cho người thừa kế 
có nghĩa vụ với họ. BLDS Pháp cũng quy định tương tự BLDS Quebec, tức là cũng cho phép chủ nợ 
yêu cầu Tòa án chấp nhận cho thay thế người thừa kế để nhận phần di sản để thực hiện nghĩa vụ 
1566 
đối với mình. Ở Tây Ban Nha, nếu việc từ chối nhận di sản gây thiệt hại cho những người có quyền 
thì những người có quyền có thể yêu cầu Tòa án cho phép họ chấp nhận di sản trên danh nghĩa 
của người từ chối nhận di sản [6,Tr.88,89]. 
So với quy định hiện hành ngày nay, theo nhóm tác giả, BLDS năm 2015 cần điều chỉnh cho phù 
hợp với thực tiễn bao gồm nghĩa vụ tài sản do người chết để lại mà chỉ đề cập đến nghĩa vụ riêng 
của người thừa kế, để đảm bảo quyền lợi và việc thực hiện nghĩa vụ của những người có liên quan, 
bên cạnh đó pháp luật cần phải có những quy định cụ thể hơn về việc xử lý khối di sản trong trường 
hợp người thừa kế từ chối nhận di sản để tránh xảy ra trường hợp tranh chấp liên quan đến khối di 
sản mà người thừa kế từ chối nhận di sản đó. 
2.6 Về thừa kế quyền sử dụng đất 
Một trong những điều điều kiện về thừa kế quyền sử dụng đất là phải có giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất theo Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 (Sửa đổi, bổ sung 2018), được quy định cụ 
thể trong điều Điều 101 Luật Đất đai 2013, bên cạnh đó luật cũng có quy định thông thoáng để bảo 
vệ quyền lợi của những người chưa có giấy chứng nhận đất, Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP 
Hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013 quy định: hộ gia đình, cá nhân không có giấy tờ về quyền sử 
dụng đất mà đang sử dụng đất trước ngày 01/7/2014, có hộ khẩu thường trú tại địa phương, vùng 
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, được xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, 
không có tranh chấp hoặc đã được sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và 
không vi phạm pháp luật về đất đai, thì vẫn đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận. Mặc dù, có 
quy định là vậy nhưng trên thực tế việc để thừa kế loại đất này phải trải qua các thủ tục hành chính 
tương đối phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố liên quan đến cơ sở vật chất, năng lực,... của những 
cơ quan hành chính liên quan đến thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất [2]. Theo đó, 
qua khảo sát trực tiếp, thực địa tại huyện Đà Bắc và Lương Sơn và khảo sát gián tiếp đối với các 
huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh cho thấy: Việc thực hiện thủ thụ cấp giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất lần đầu, thủ tục thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở đây vẫn còn gặp 
nhiều khó khăn. Kể từ tháng 1/2016, Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường 
đi vào hoạt động, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tập trung về một mối nhưng cho 
đến nay, tốc độ giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn chậm. Nguyên 
nhân xuất phát những hạn chế, vướng mắc chung của đơn vị cơ quan quan các tỉnh thành trên là 
do thiếu nhân lực, thiếu trang thiết bị làm việc,... Một mặt, việc chuyển hồ sơ từ huyện lên tỉnh và 
ngược lại mất nhiều thời gian, thực tế có nhiều hồ sơ quá thời hiệu xử lý gây ra nhiều tình trạng trì 
trệ, ứ đọng, khiến cho việc thực hiện thủ tục giữa Phòng Tài nguyên - Môi trường với Chi nhánh Văn 
phòng đăng ký đất đai các huyện, thành phố bị kéo dài thời gian. Bên cạnh đó. Việc chỉnh lý hồ sơ 
địa chính chưa được thường xuyên, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mất nhiều 
thời gian đo đạc, xác minh bổ sung hồ sơ do công tác rà soát, xác định nguồn gốc lịch sử đất, đo 
đạc đối với đất nông - lâm trường thực hiện còn chậm, chất lượng chưa cao dẫn đến có những sai 
sót khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chính từ thực trạng này đã khiến cho việc cập 
nhật thông tin liên quan đến hồ sơ về đất đai bị trì trệ, không cung cấp được những thông tin cần 
thiết, khiến cho quyền lợi của những người có liên quan bị ảnh hưởng nặng nề [12]. 
1567 
Từ bất cập nói trên chúng ta cần phải công nghệ hóa quá trình quản lý đất đai ở một phần mềm 
chuyên dụng để phát huy tốt hiệu quả quản lý của Nhà nước về đất đai trong việc lưu trữ, quản lý 
hồ sơ về thửa đất cũng như cập nhật được nhanh những biến động về thửa đất, đồng thời đẩy 
nhanh tiến độ xử lý hồ sơ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để việc xác định người thừa 
kế và di sản thừa kế thuận lợi hơn. 
3 KẾT LUẬN 
Quyền thừa kế không những là quyền dân sự của cá nhân mà là quyền con người, cho nên Nhà 
nước cần tạo mọi điều kiện cho cá nhân thực hiện quyền thừa kế của mình một cách tốt nhất. Ở 
những nội dung trên đã phản ánh lên những bất cập, thực trạng về chế định thừa kế trong BLDS 
2015 cũng như một số quan điểm, kiến nghị của nhóm tác giả về những vấn đề đó. Từ đó, có thể có 
căn cứ đánh giá giá trị của qui định thừa kế hiện nay, cũng như có thể đề ra một số giải pháp kiến 
nghị để góp phần hoàn thiện hơn về qui định thừa kế trong BLDS 2015. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Báo quản trị, ‚Di chúc miệng‛: Bất cập và kiến nghị hoàn thiện, xem tại 
https://danluat.thuvienphapluat.vn/di-chuc-mieng-bat-cap-va-khuyen-nghi-hoan-thien-
176708.aspx, truy cập ngày 10/4/2020; 
[2] Báo quản trị, Những bất cập liên quan đến thừa kế quyền sử dụng đất, xem tại 
https://danluat.thuvienphapluat.vn/nhung-bat-cap-lien-quan-den-thua-ke-quyen-su-dung-
dat-164175, truy cập ngày 15/4/2020; 
[3] Bộ luật Dân sự năm 2015; 
[4] Đoàn Thị Ngọc Hải, Thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật Dân sự, xem tại 
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2435, truy cập ngày 
5/4/2020; 
[5] Hiến pháp năm 2013; 
[6] Huỳnh Quang Thuận, Nguyễn Phương Thảo, 2018, Tạp chí pháp luật và thực tiễn – số 37, 
trang 88,89; 
[7] Luật Đất đai năm 2013 (Sửa đổi, bổ sung năm 2018); 
[8] Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; 
[9] Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ban hành ngày 15 tháng 5 năm 2014 Hướng dẫn thi hành Luật 
Đất đai 2013; 
[10] Nguyễn Quang Lộc, Một số vấn đề khúc mắc trong pháp luật thừa kế, xem tại 
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/mot-so-van-de-khuc-mac-ve-phap-luat-thua-
ke?, truy cập ngày 13/4/2020; 
1568 
[11] Phan Thành Nhân, Một số vướng mắc về người thừa kế theo pháp luật và đề xuất, kiến nghị, 
xem tại https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mot-so-vuong-mac-ve-nguoi-thua-ke-
theo-phap-luat-va-de-xuat-kien-nghi?, truy cập ngày 7/4/2020; 
[12] Thúy Hằng, Bất cập trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xem tại 
 truy cập ngày 17/4/2020. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_bat_cap_trong_quy_dinh_ve_thua_ke_cua_bo_luat_dan_su.pdf