Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay

Ở nước ta hiện nay, phản biện xã hội được xem là công cụ, kênh thông

tin quan trọng và không thể thiếu trong phát huy dân chủ, tăng cường

đồng thuận xã hội. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích, đánh giá

một số vấn đề thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam và đưa ra một số

khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới.

Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay trang 1

Trang 1

Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay trang 2

Trang 2

Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay trang 3

Trang 3

Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay trang 4

Trang 4

Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay trang 5

Trang 5

Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay trang 6

Trang 6

Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 2180
Bạn đang xem tài liệu "Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay

Một góc nhìn về thực tiễn phản biện xã hội tại Việt Nam hiện nay
ăn bản 
pháp luật cũng như nâng cao nhận thức, hiểu 
biết của người dân. 
Thực tiễn PBXH cho thấy, mặc dù chất 
lượng hoạt động xây dựng pháp luật của 
nước ta vẫn còn nhiều vấn đề cần phải đặt 
ra, nhưng khả năng lắng nghe tiếng nói của 
người dân, sự phản hồi thông tin từ phía cơ 
quan quản lý nhà nước đã có sự chuyển biến 
đáng kể. Điều này cho thấy nguyện vọng của 
người dân, ý kiến của các chuyên gia, các 
đối tượng chịu sự tác động trực tiếp đã có 
tác động tích cực đối với các nhà hoạch định 
chính sách.
Mặt khác, chính sự tác động mạnh mẽ 
của PBXH đối với hoạt động xây dựng pháp 
luật đòi hỏi các chủ thể tiếp nhận phản biện 
cũng cần phải nghiêm túc hơn trong việc xây 
dựng chính sách, pháp luật để bảo đảm chất 
lượng của các văn bản. 
Đối với người dân, khi tham gia vào các 
diễn đàn xã hội, họ cũng chịu ảnh hưởng, tác 
động về mặt nhận thức mà PBXH mang lại. 
Đồng thời, thông qua tần suất các PBXH, có 
thể đánh giá được vấn đề chính sách nào là 
thiết thực, thu hút được sự quan tâm của đông 
đảo công chúng, qua đó nhận thức, hiểu biết 
pháp luật của người dân dần được nâng cao.
4. Việc xây dựng và ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN20:2019/BKHCN về thép không gỉ là nhằm 
mục đích hướng tới việc kiểm soát an toàn, chất lượng thép không gỉ được sản xuất và kinh doanh tại Việt 
Nam. Quá trình xây dựng Quy chuẩn này tuân thủ quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, 
theo đó dự thảo quy chuẩn này đã được gửi lấy ý kiến Hiệp hội Thép Việt Nam, một số doanh nghiệp, cơ quan 
quản lý và được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Khoa học và Công nghệ để lấy ý kiến góp ý là 
60 ngày. Tuy nhiên, thực tế các doanh nghiệp chỉ quan tâm để Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN20:2019/
BKH sau khi được bàn hành. Nguồn https://hotrodoanhnghiep.hanoi.gov.vn/tin-tuc/bo-khoa-hoc-va-cong-
nghechinh-thuc-go-kho-cho-doanh-nghiep-thep-khong-gi-moy2e6v74p.
5. Xem Ngô Sách Thực (2019), Thực trạng, những vấn đề đặt ra hiện nay trong hoạt động phản biện xã hội của 
MTTQ Việt Nam, 
dong-phan-bien-xa-hoi-cua-mttq-viet-nam-22241.html, ngày đăng tải: 18/3/2019, ngày truy cập 26/01/2020.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, 
hoạt động PBXH vẫn còn bộc lộ một số bất 
cập, hạn chế như sau: 
Thứ nhất, hoạt động PBXH hiện nay 
đôi khi còn hình thức, thiếu tính chủ động, 
kịp thời.
Trong một số trường hợp, sự tham gia 
của các tổ chức xã hội còn thụ động4, nêu 
ý kiến một cách dè dặt, chưa mạnh dạn 
phản biện mạnh mẽ ngay cả khi vấn đề đó 
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các 
thành viên tổ chức mình. Các buổi PBXH do 
MTTQ Việt Nam thực hiện cho đến nay vẫn 
chưa thực sự rõ nét; số buổi PBXH còn ít kể 
cả ở trung ương và địa phương. Tiếng nói 
của MTTQ sau các cuộc phản biện chưa đủ 
mạnh mẽ để làm thay đổi căn bản các chính 
sách thực sự có vấn đề đã được phản biện. 
Quá trình thực hiện phản biện vẫn còn gặp 
nhiều khó khăn, vướng mắc trong lựa chọn 
nội dung phản biện, nguồn nhân lực, kinh phí 
trong quá trình phản biện, nhất là tại các địa 
phương. Trong 3 hình thức PBXH, MTTQ 
mới chỉ chú trọng thực hiện hình thức hội 
nghị phản biện. Việc gửi dự thảo văn bản 
được phản biện xã hội đến cơ quan, tổ chức, 
cá nhân liên quan và tổ chức đối thoại trực 
tiếp giữa MTTQ Việt Nam với cơ quan, tổ 
chức có văn bản được PBXH cũng chưa thực 
sự có hiệu quả5.
Hoạt động tư vấn, phản biện xã hội của 
Liên hiệp các tổ chức khoa học kỹ thuật Việt 
Nam (VUSTA) chưa thực sự đồng đều, hiệu 
quả; một số nhà khoa học còn e ngại, nể 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
36 Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
nang, do vậy đôi khi tiếng nói phản biện còn 
chưa mạnh mẽ6. Hoạt động tư vấn, phản biện 
xã hội ở một số liên hiệp hội địa phương, hội 
thành viên còn yếu về chất lượng, thiếu tính 
thuyết phục7.
Thứ hai, chất lượng một số ý kiến 
PBXH chưa thật sự khoa học gây ảnh hưởng 
đến quá trình xây dựng chính sách, pháp luật.
Chất lượng của PBXH phụ thuộc phần 
lớn vào trình độ hiểu biết của chủ thể PBXH. 
Sự hiểu biết nhiều hay ít, sâu sắc hay không 
sâu sắc sẽ quyết định sự đánh giá đúng hay 
sai của chủ thể PBXH đối với vấn đề, sự 
kiện, hiện tượng đó. Chính vì vậy, không 
phải lúc nào PBXH cũng đúng. Trên thực 
tế, có không ít trường hợp chủ thể PBXH 
do chưa hiểu rõ các quy định của pháp luật, 
thiếu thông tin nên dẫn đến tình trạng chạy 
theo dư luận, phản biện chưa thật sự khách 
quan, khoa học8.
Hiện nay, báo chí được đánh giá có vai trò 
quan trọng là cầu nối giữa Nhà nước và người 
dân cũng như giữa chính sách và cuộc sống. 
Tuy nhiên, có trường hợp hoạt động phản biện 
của báo chí còn chủ quan, thiếu cơ sở khoa 
học “theo tin đồn” đã dẫn đến hậu quả không 
tốt cho chính trị và kinh tế, xã hội9. Đặc biệt, 
với sự xuất hiện của mạng xã hội (Facebook, 
Youtube) làm cho thông tin phát triển và phát 
tán một cách khó kiểm soát với những nguồn 
tin không chính thống, thiếu chính xác. Điều 
này đã đặt ra cho hoạt động truyền thông báo 
chí nhiều vấn đề cần giải quyết trong việc 
hình thành và thể hiện PBXH.
Thứ tư, năng lực PBXH của các chủ thể 
vẫn còn hạn chế. 
6. 
cang-phat-trien-608, truy cập ngày 03/02/2021.
7. Phan Việt Phong, Ngô Đình Sáng, Tập hợp, phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ, 
nghe-131250, truy cập ngày 26/01/2021.
8. https://vovgiaothong.vn/du-thao-sua-doi-luat-gtdb-khi-de-xuat-khong-di-cung-chinh-kien.
9. Xem thêm: Nguyễn Văn Minh, “Chức năng phản biện xã hội của báo chỉ ở Việt Nam hiện nay”, Luận án 
TSKHCT, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội 2014, tr. 127.
Tình trạng chung hiện nay tại các tổ 
chức thực hiện PBXH là thiếu các chuyên 
gia nghiên cứu độc lập và các nghiên cứu đủ 
sức thuyết phục để có thể tác động tích cực 
đối với đối tượng chịu sự PBXH. Đó phải là 
những người có trình độ chuyên môn cao, có 
bản lĩnh, tâm huyết, dám vượt qua những 
khó khăn, bất cập của cơ chế để kiên trì bảo 
vệ các quan điểm phản biện đúng đắn của 
mình. Hiện nay, đội ngũ cán bộ ở MTTQ, 
các tổ chức chính trị - xã hội đảm nhận công 
tác này còn mỏng, thiếu kinh nghiệm; một bộ 
phận cán bộ thiếu nhiệt huyết với công việc, 
còn có tâm lý ngại va chạm, nên ảnh hưởng 
lớn tới chất lượng PBXH. Ở địa phương, hệ 
thống tổ chức tư vấn hoạt động không rõ nét. 
Chất lượng đóng góp ý kiến, phản biện 
của các hiệp hội doanh nghiệp vẫn chưa thực 
sự đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của cộng 
đồng doanh nghiệp; các kiến nghị, đề xuất 
có tính dự báo về những vấn đề lớn trong hội 
nhập, phát triển kinh tế và phát triển doanh 
nghiệp còn hạn chế. 
Có nhiều nguyên nhân cho những bất 
cập, tồn tại trên, trong đó có thể khái quát 
một số nguyên nhân chính như sau: 
Thứ nhất, thiếu sự nhận thức đầy đủ từ 
cơ quan nhà nước cũng như từ người dân về 
hoạt động PBXH: Là chủ thể tiếp nhận phản 
biện nhưng nhiều khi cơ quan nhà nước, cá 
nhân có thẩm quyền lại chưa coi trọng phản 
biện, ngại sự phản biện; vẫn còn tâm lý cho 
rằng phản biện là luôn tìm ra những cái sai, 
thiếu sót và coi đó là đụng chạm, “soi mói”, 
“vạch lá tìm sâu”, thậm chí là chống đối, 
phản kháng Cơ quan nhà nước vẫn xem 
công việc quản lý là công việc của Nhà nước 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021 37
mà chưa có nhận thức đúng đắn về vai trò 
của công dân trong việc tham gia quản lý 
nhà nước. Một bộ phận không nhỏ người dân 
trong xã hội thờ ơ, không quan tâm đến việc 
tham gia thực hiện PBXH. Sự thờ ơ của đa 
số nhân dân đối với các công việc của Nhà 
nước do nhiều lý do rất khác nhau. Cũng có 
những người tâm huyết, nhưng mất lòng tin 
khi ý kiến đóng góp không được phản hồi 
hoặc do các hình thức tổ chức lấy ý kiến quá 
hình thức.
Thứ hai, sự thiếu vắng một thể chế 
pháp lý đồng bộ gây ảnh hưởng nhất định 
đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động 
phản biện xã hội.
Hiện nay, các quy định của pháp luật 
liên quan đến phản biện xã hội còn nằm rải 
rác trong nhiều văn bản với mức độ ghi nhận 
khác nhau, từ Hiến pháp, các đạo luật về tổ 
chức bộ máy, các đạo luật chuyên ngành cho 
đến các văn bản hướng dẫn thi hành. Quy 
định về chủ thể, đối tượng, nội dung, hình 
thức PBXH cũng chưa đồng bộ, thống nhất.
Thứ ba, kiến thức pháp luật của người 
dân còn hạn chế, ảnh hưởng của truyền 
thống văn hóa đang là một thách thức lớn đặt 
ra hiện nay cho hoạt động PBXH.
Xét một cách tổng thể, kiến thức và 
sự hiểu biết về pháp luật của người dân nói 
chung còn hạn chế; người dân nhìn nhận, 
đánh giá vấn đề bằng “bản năng” chứ không 
có những kiến thức, lý lẽ, lập luận khoa học, 
hợp lý. Một yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ 
đến hoạt động PBXH hiện nay là vấn đề văn 
hoá ứng xử của người Việt Nam: tư duy trọng 
tình, lối sống “dĩ hòa vi quý”, e ngại xung 
đột một khi quyền lợi của chính mình chưa 
bị ảnh hưởng. Tranh luận chưa trở thành một 
nét văn hóa trong PBXH tại Việt Nam. Mặt 
khác, xu hướng lấy số đông làm chuẩn, coi 
chân lý thuộc về số đông cũng có ảnh hưởng 
mạnh mẽ đến chất lượng, hiệu quả PBXH10.
10. Tính cách “dị biệt” của người Việt: “Thiếu văn hóa tranh luận”, (2013), tại địa chỉ: http:// kienthuc. net.vn/
giai-ma/tinh-cach-di-biet-cua-nguoi-viet-thieu-van-hoa-tranh-luan- 269959.html, truy cập ngày 04/01/2020.
2.	 Một	 số	 khuyến	 nghị	 nhằm	 nâng	 cao	
hiệu	quả	phản	biện	xã	hội	ở	Việt	Nam
Thứ nhất, ghi nhận PBXH trong Hiến 
pháp như một quyền công dân.
Hiến pháp năm 2013 mới chỉ quy định 
PBXH dưới góc độ là một chức năng của 
MTTQ Việt Nam mà chưa xem đó là một 
quyền dân chủ trực tiếp của công dân được 
thực hiện trên cơ sở quyền tự do ngôn luận. 
PBXH phải được xem là quyền bày tỏ ý kiến 
một cách có hệ thống và có cơ sở khoa học, 
là hình thức phát triển cao nhất xuất phát từ 
quyền tham gia đóng góp ý kiến của công 
dân vào các hoạt động của Nhà nước. Chính 
vì vậy, cần ghi nhận PBXH như một hình 
thức thực hiện quyền tham gia quản lý nhà 
nước và xã hội của công dân.
Thứ hai, ban hành Luật về PBXH và 
hoàn thiện một số văn bản pháp luật có 
liên quan.
Để khắc phục bất cập trong các quy định 
hiện hành về PBXH, chúng tôi cho rằng, cần 
ban hành Luật PBXH. Luật cần quy định rõ 
những vấn đề sau: chủ thể, đối tượng phản 
biện, hình thức, nội dung, trình tự thủ tục tiến 
hành hoạt động phản biện, các điều kiện bảo 
đảm; quyền, nghĩa vụ của chủ thể PBXH; 
trách nhiệm của cơ quan nhà nước - chủ thể 
chịu phản biện trong việc cung cấp thông tin 
liên quan đến các vấn đề được phản biện, tạo 
điều kiện để các ý kiến phản biện đều có thể 
được truyền đạt đến cơ quan nhà nước; cơ 
chế tiếp nhận và phản hồi kết quả tiếp thu đối 
với các ý kiến PBXH 
Ngoài ra, nhằm tạo công cụ, môi 
trường thúc đẩy PBXH, cần ban hành mới 
hoặc sửa đổi một số luật như: Luật về Hội, 
Luật Dân chủ cơ sở, Luật Tiếp cận thông 
tin, Luật Báo chí...
Thứ ba, tổ chức thực hiện có hiệu quả các 
quy định của pháp luật hiện hành về lấy ý kiến 
người dân trong quá trình xây dựng pháp luật.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
38 Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
Để hoạt động PBXH thực chất và hiệu 
quả, trong quá trình thực thi Luật Ban hành 
văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan 
có trách nhiệm xây dựng pháp luật khi thực 
hiện việc lấy ý kiến nhân dân nói chung, các 
đối tượng cụ thể nói riêng, cần phải bảo đảm: 
- Các nội dung (ý tưởng xây dựng chính 
sách, quy định pháp luật và các vấn đề liên 
quan) đưa ra lấy ý kiến phải được thuyết 
minh và giải trình rõ ràng về mục đích, quan 
điểm, các khía cạnh nội dung, tác động của 
chính sách, dự thảo văn bản; nếu có nhiều 
nội dung thì phải xác định các nội dung trọng 
tâm, trọng điểm, các nội dung có vướng mắc, 
các nội dung đụng chạm, liên quan đến lợi 
ích của nhiều nhóm đối tượng trong xã hội 
và không được bỏ qua trong việc phân tích 
sự tác động của chính sách, dự thảo văn bản 
đối với các nhóm lợi ích liên quan.
- Mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin cho 
người dân, công khai thông tin nhiều chiều, 
đồng thời khuyến khích người dân chủ động 
tìm kiếm thông tin; cần thiết kế và đa dạng 
hoá các công cụ cung cấp thông tin, cách thức 
công khai thông tin (ví dụ có thể lấy ý kiến 
trên các trang mạng xã hội với những câu hỏi 
rất đơn giản, dễ hiểu); sử dụng cách thức và 
phương pháp phù hợp thu hút sự tham gia 
của các đối tượng khác nhau, trong đó đặc 
biệt chú trọng huy động sự tham gia của đối 
tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản 
và các chuyên gia, các nhà khoa học vào hoạt 
động xây dựng chính sách, pháp luật11... 
- Tạo ra cơ chế nghe, tiếp thu và phản 
hồi ý kiến một cách thường xuyên và có trách 
nhiệm; công chúng cũng phải có cơ hội tiếp 
cận nguồn thông tin đa chiều, thậm chí khác 
biệt hoàn toàn với ý kiến của cơ quan chủ trì 
soạn thảo, các nhà lập pháp; các ý kiến phản 
biện của người dân phải được cơ quan chủ trì 
soạn thảo, nhà lập pháp nghiên cứu cẩn trọng 
và có trách nhiệm; việc tiếp thu hay không 
tiếp thu phải được giải trình rõ ràng, công 
11. Xem: Vai trò của các tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng pháp luật, nguồn:  
/Article/ vai-tro-cua-cac-to-chuc-xa-hoi-trongqua-trinh-xay-dung-phap-luat, ngày 24/8/2014.
khai và kịp thời trên chính các phương tiện, 
công cụ nhận ý kiến tham gia của người dân. 
Thứ tư, nâng cao trình độ hiểu biết pháp 
luật của người dân. 
Trong thời gian tới, các cơ quan chức 
năng cần phải tăng cường công tác tuyên 
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, các chủ 
trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà 
nước thông qua các hình thức tuyên truyền 
phù hợp, có hiệu quả để các tầng lớp nhân dân 
hiểu, nắm bắt và đồng thuận, ủng hộ; cũng như 
để động viên, khích lệ nhân dân không chỉ tích 
cực thực hiện, mà còn có khả năng giám sát và 
phản biện quá trình thực hiện. 
Thứ năm, nâng cao năng lực, bản lĩnh 
của chủ thể PBXH.
Thực tiễn hoạt động PBXH thời gian qua 
cho thấy, chủ thể PBXH chưa thực sự đủ mạnh 
để thực hiện chức năng PBXH. Vì vậy, việc 
nâng cao năng lực, bản lĩnh của chủ thể PBXH 
có vai trò quyết định đến chất lượng ý kiến, 
đánh giá PBXH của các chủ thể. Đối với các 
chủ thể PBXH quan trọng, có tầm ảnh hưởng 
lớn như MTTQ Việt Nam, VUSTA cần tiếp 
tục đổi mới về tổ chức và hoạt động, chú trọng 
hơn nữa việc tập hợp các nhà khoa học, các 
chuyên gia ở trên các lĩnh vực khác nhau, phát 
huy được sức mạnh tổng hợp của các thành 
viên vào hoạt động phản biện của mình. Nếu 
tiếng nói của mỗi chủ thể chưa đủ mạnh để 
thuyết phục hoặc tạo ra sự thay đổi từ phía đối 
tượng chịu PBXH thì cần kết hợp, tập trung 
sức mạnh của nhiều chủ thể lại, cùng lên tiếng 
về một vấn đề. Nếu có cơ chế phối hợp tốt 
sẽ đủ sức tạo được dư luận buộc cơ quan nhà 
nước, cá nhân có thẩm quyền phải lắng nghe, 
có trách nhiệm tiếp thu và giải trình những vấn 
đề đã được phản biện. Có như vậy thì mới thực 
sự phát huy được sự tham gia của mỗi chủ thể 
phản biện vào hoạt động PBXH và PBXH mới 
phát huy hết được vai trò tích cực của nó đối 
với đời sống chính trị - xã hội của đất nước 

File đính kèm:

  • pdfmot_goc_nhin_ve_thuc_tien_phan_bien_xa_hoi_tai_viet_nam_hien.pdf