Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế

Bài viết cho thấy vai trò của ngành lâm nghiệp và 4 tiểu ngành lâm nghiệp trong tổng thể

các ngành kinh tế cũng như các điểm hiệu quả để xây dựng các chính sách can thiệp, từ đó

cung cấp các cơ sở khoa học để huy động các nguồn lực cho phát triển lâm nghiệp bền vững ở

Việt Nam.

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 1

Trang 1

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 2

Trang 2

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 3

Trang 3

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 4

Trang 4

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 5

Trang 5

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 6

Trang 6

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 7

Trang 7

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 8

Trang 8

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 6280
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế

Mối quan hệ giữa nhóm ngành Lâm nghiệp với nền kinh tế
 thực tế rằng các sản phẩm khai 
tượng. Tuy nhiên, các tiểu ngành lâm nghiệp 
 thác gỗ là đầu vào quan trọng cho hai ngành 
tự tạo ra ảnh hưởng cho nhau: Ngành 1: 
 12 và 16. Sự thay đổi tích cực của các ngành 
Trồng và chăm sóc rừng; ngành 2: Khai thác 
 khai thác gỗ theo hướng đáp ứng nhu cầu 
gỗ; Ngành 3: Sản phẩm khác từ rừng; và 
 cao từ các ngành liên quan đến chế biến gỗ 
ngành 4: Dịch vụ lâm nghiệp. Từ số liệu của 
 sẽ có đóng góp lớn cho nền kinh tế. 
bảng IO, cho thấy ngành kinh tế 12 (sản xuất 
 Bảng 2: Phân tích các hiệu ứng lan tỏa năm 2016 
 Đơn vị tính: Lần 
 Liên Ảnh Ảnh Ảnh Hệ số lan Ảnh hưởng Ảnh hưởng Ảnh hưởng 
Ngành kết hưởng hưởng hưởng tỏa về sản số nhân lan tỏa bình tràn bình 
 ngược số nhân lan tỏa tràn lượng bình quân quân quân 
 1 1,789 1,504 0,004 0,281 0,924 0,806 0,701 4,488 
 2 1,457 1,365 0,002 0,09 0,753 0,731 0,296 1,441 
 3 1,619 1,274 0,011 0,335 0,837 0,682 1,764 5,354 
 4 1,529 1,282 0,004 0,243 0,79 0,687 0,617 3,884 
 5 1,929 1,911 0,003 0,016 0,997 1,024 0,462 0,25 
 6 2,938 2,918 0,003 0,017 1,518 1,563 0,506 0,264 
 7 
 
 Liên Ảnh Ảnh Ảnh Hệ số lan Ảnh hưởng Ảnh hưởng Ảnh hưởng 
Ngành kết hưởng hưởng hưởng tỏa về sản số nhân lan tỏa bình tràn bình 
 ngược số nhân lan tỏa tràn lượng bình quân quân quân 
 7 2,482 2,468 0,002 0,012 1,283 1,322 0,346 0,19 
 8 1,759 1,751 0,001 0,006 0,909 0,938 0,169 0,102 
 9 2,887 2,863 0,004 0,021 1,492 1,534 0,611 0,328 
 10 2,082 2,056 0,004 0,022 1,076 1,102 0,636 0,355 
 11 1,965 1,95 0,002 0,013 1,015 1,045 0,362 0,208 
 12 2,343 1,818 0,077 0,447 1,211 0,974 12,687 7,146 
 13 2,137 2,118 0,003 0,016 1,104 1,135 0,514 0,263 
 14 2,146 2,123 0,003 0,019 1,109 1,138 0,561 0,308 
 15 1,848 1,837 0,001 0,009 0,955 0,984 0,237 0,142 
 16 1,919 1,76 0,019 0,14 0,992 0,943 3,039 2,238 
 Nguồn: Tác giả tính toán từ bảng IO Việt Nam năm 2016 
 3.4. Đóng góp về giá trị tăng thêm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, trong 
của ngành lâm nghiệp trong tổng ngành đó các sản phẩm trồng và chăm sóc rừng 
nông, lâm nghiệp và thủy sản và tổng chiếm tỷ lệ cao nhất (9,8%). Trong GVA, 
giá trị tăng thêm của nền kinh tế ngành lâm nghiệp đóng góp tới 2,31%, đặc 
 biệt chỉ riêng việc trồng và chăm sóc rừng đã 
 Bảng 3 cho thấy tổng giá trị tăng thêm 
 đóng góp tới 1,64%. 
ngành lâm nghiệp chiếm 13,75% trong ngành 
 Bảng 3: Đóng góp của ngành lâm nghiệp trong nông, lâm nghiệp và thủy sản và GVA năm 2016 
 Đơn vị tính: % 
 Trồng và Khai thác Các sản phẩm Dịch vụ Tổng ngành 
 chăm sóc rừng gỗ khác từ rừng lâm nghiệp lâm nghiệp 
 Tỷ lệ trong nông, lâm 
 9,79 2,35 1,46 0,15 13,75 
 nghiệp và thủy sản 
 Tỷ lệ trong GVA 1,64 0,39 0,25 0,02 2,31 
 Nguồn: Tác giả ước tính từ bảng IO của Việt Nam năm 2016 
 3.5. Thay đổi cấu trúc kinh tế thông ngành trồng và chăm sóc rừng. Trong giai 
qua chỉ số về lan tỏa và độ nhạy đoạn từ 2010-20153, chỉ số độ nhạy thấp hơn 
 mức trung bình chung của nền kinh tế (thấp 
 Bảng 4 cho thấy sự thay đổi cơ cấu đóng 
 hơn 1), nhưng nó đã được cải thiện và vượt 
góp của các tiểu ngành lâm nghiệp khác 
 qua mức trung bình chung của nền kinh tế 
nhau trong giai đoạn 2010-2015 (Bảng IO 
 (đạt 1,30) trong giai đoạn hiện nay4. 
2012) và giai đoạn 2016-2020 được ước tính 
trong Bảng IO 20162, có thể thấy nhu cầu về Về nguyên tắc, nếu ảnh hưởng lan tỏa 
các sản phẩm của ngành lâm nghiệp thông đối với giá trị tăng thêm tăng và tác động 
qua việc phân tích độ nhạy và mức lan tỏa đến nhập khẩu (ảnh hưởng lan tỏa giảm khi 
của 4 tiểu ngành tăng mạnh, đặc biệt là tiểu nhập khẩu) sẽ giảm được xem như tín hiệu 
2 Theo nguyên tắc, bảng IO sẽ được xây dựng trong thời 3 Giả thiết bảng IO 2012 đại diện giai đoạn 2010-2015. 
gian là 5 năm. 4 Giả thiết bảng IO 2016 đại diện giai đoạn 2015-2020. 
 8 
  
tích cực trong cấu trúc ngành. Các nhóm của giai đoạn 2015-2020 cao hơn giai đoạn 
ngành được coi là tầm quan trọng tương đối 2010-2015 là 20 điểm phần trăm. Sự thay đổi 
khi các chỉ số của các ngành đã thay đổi theo này là đáng kể, thực sự là điểm sáng trong 
hướng tích cực. Kết quả phân tích cho thấy điều hành của Chính phủ; điều này phần nào 
nhóm ngành khai thác gỗ có ảnh hưởng lan phản ánh thực tế rằng đã có chính sách hỗ 
tỏa đến nhập khẩu giai đoạn 2015-2020 thấp trợ cho việc kiểm soát nhập khẩu gỗ trong 
hơn giai đoạn trước (2010-2015) là 23 điểm giai đoạn 2013-2015. 
phần trăm và lan tỏa đến giá trị tăng thêm 
 Bảng 4: Ảnh hưởng lan tỏa, độ nhạy đối với của nhóm ngành lâm nghiệp 
 Đơn vị tính: Lần 
 Năm 2012 Năm 2016 
 Các tiểu ngành lâm nghiệp 
 Độ nhạy Hệ số lan tỏa Độ nhạy Hệ số lan tỏa 
 Trồng và chăm sóc rừng 0,61 0,80 1,30 0,89 
 Khai thác gỗ 0,59 0,66 0,63 0,71 
 Các sản phẩm khác từ rừng 0,63 0,74 0,56 0,80 
 Dịch vụ lâm nghiệp 0,67 0,71 0,51 0,75 
 Nguồn: Tác giả ước tính từ bảng IO năm 2012 và 2016 của Việt Nam 
 3.6. Nhân tử nhập khẩu và giá trị với giá trị tăng thêm trên tiểu ngành các sản 
tăng thêm phẩm khác từ rừng phản ánh thực tế rằng 
 lâm sản ngoài gỗ đã không được chú trọng 
 Những thực thi trong 2 tiểu ngành thuộc 
 nhiều trong thời gian vừa qua khi khai thác 
ngành lâm nghiệp cho thấy phát triển lâm 
 gỗ từ rừng tự nhiên vẫn được cho phép. 
nghiệp ở Việt Nam đã chuyển sang hướng 
bền vững hơn và khai thác gỗ từ rừng trồng Nhóm ngành dịch vụ lâm nghiệp có ảnh 
đã thay thế một phần cho nhu cầu nhập hưởng lan tỏa trên chỉ số nhập khẩu giảm 2 
khẩu gỗ phục vụ nhu cầu công nghiệp chế điểm phần trăm và ảnh hưởng lan tỏa đối với 
biến gỗ. giá trị tăng thêm tăng 4 điểm phần trăm cho 
 thấy nhóm ngành này cũng đã có những 
 Sự gia tăng ảnh hưởng lan tỏa trong 
 chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, sự cải thiện 
nhập khẩu giai đoạn 2016 so với năm 2012 
 không đáng kể như các nhóm ngành khác 
có sự gia tăng nhỏ về ảnh hưởng lan tỏa đối 
 của ngành lâm nghiệp. 
 Bảng 5: Ảnh hưởng lan tỏa đến nhập khẩu và giá trị tăng thêm 
 Đơn vị tính: Lần 
 Năm 2012 Năm 2016 2016 so với 2012 (%) 
 Nhóm ngành Nhập Giá trị Nhập Giá trị Nhập Giá trị 
 khẩu tăng thêm khẩu tăng thêm khẩu tăng thêm 
 Trồng và chăm sóc rừng 0,61 1,16 0,38 1,34 -38 +16 
 Khai thác gỗ 1,94 0,61 1,50 0,73 -23 +20 
 Các sản phẩm khác từ rừng 0,41 1,25 0,46 1,29 +12 +3 
 Dịch vụ lâm nghiệp 0,62 1,16 0,61 1,21 -2 +4 
 Nguồn: Tác giả tính toán dựa vào bảng IO năm 2012 và 2016 của Việt Nam 
 9 
 
 3.7. Giá trị sản xuất và giá trị tăng sản phẩm đầu vào lâm nghiệp tăng trưởng. 
thêm lan tỏa bởi các yếu tố cầu cuối cùng Tác động liên kết ngược giữa các ngành sẽ 
 Bảng 6 cho thấy giá trị tăng thêm của tạo ra giá trị tăng thêm cho ngành lâm nghiệp. 
ngành lâm nghiệp được tạo ra bởi các sản Ngược lại, các sản phẩm cuối cùng của 
phẩm cuối cùng của các ngành kinh tế khác ngành lâm nghiệp gần như không có ảnh 
nhiều hơn giá trị tăng thêm của các ngành hưởng (chỉ 0,002%) đối với giá trị tăng thêm 
kinh tế khác được tạo ra bởi các sản phẩm của các ngành khác trong nền kinh tế. Những 
cuối cùng của ngành lâm nghiệp. Giá trị tăng kết quả này cho thấy ngành lâm nghiệp đóng 
thêm của ngành lâm nghiệp được tạo ra bởi vai trò quan trọng trong việc cung cấp đầu 
các sản phẩm cuối cùng của chính ngành đó vào cho các ngành kinh tế khác phát triển và 
chỉ chiếm 12,9% trong khi các sản phẩm cuối do đó, khi nhìn vào sự đóng góp của ngành 
cùng của các ngành kinh tế khác trong nền lâm nghiệp vào GDP (hay GVA), ta nên nhìn 
kinh tế chiếm tới 87,1%. Điều này đã xảy ra nhận sự đóng góp của nó trong bối cảnh 
bởi vì khi các sản phẩm khác được sử dụng toàn nền kinh tế, không chỉ đơn giản là trên 
cho nhu cầu cuối cùng, sẽ dẫn đến sự gia con số thống kê như là một lĩnh vực trong 
tăng sản lượng của các ngành khác trong bảng IO. 
nền kinh tế, do đầu vào tăng lên kéo theo 
 Bảng 6: Giá trị tăng thêm của ngành lâm nghiệp và các ngành khác 
 lan tỏa bởi các sản phẩm cuối cùng năm 2016 
 Sản phẩm cuối Sản phẩm cuối 
 Sản phẩm cuối cùng 
 Lan tỏa đến cùng của ngành cùng của các 
 của nền kinh tế 
 lâm nghiệp ngành khác 
 Giá trị tăng thêm ngành lâm 
 12.099.266 81.511.065 93.610.330 
 nghiệp (Nghìn đồng) 
 Tỷ lệ (%) 12,9 87,1 100,0 
 Giá trị tăng thêm các ngành 
 766.646 3.962.641.690 3.963.408.337 
 khác (Nghìn đồng) 
 Tỷ lệ (%) 0,02 99,98 100,00 
 GVA (Nghìn đồng) 4.057.018.667 
 Đóng góp ngành lâm nghiệp (của 4 tiểu ngành) đến GVA (%) 2,3 
 Đóng góp đầy đủ ngành lâm nghiệp (nếu tính cả công nghiệp chế biến 
 gỗ, giấy và các sản phẩm liên quan, in ấn, công nghiệp đồ gỗ) đến 5,88 
 GVA (%) 
 Nguồn: Tác giả ước tính từ bảng IO năm 2016 của Việt Nam 
 4. Kết luận và khuyến nghị nhà quản lý về lâm nghiệp muốn tính cả 
 phần giá trị tăng thêm của một số ngành như 
 Kết luận 
 chế biến sản phẩm từ gỗ vào giá trị tăng 
 Do bệnh thành tích, một số nhóm nghiên thêm ngành lâm nghiệp. Tính cho ngành nào 
cứu đã phê phán cách tính giá trị tăng thêm là quy định, tính chung cho nền kinh tế thì 
ngành lâm nghiệp của Liên hợp quốc, các việc thêm ở ngành này bớt ở ngành kia là 
 10 
  
không có ý nghĩa gì. Giá trị tăng thêm của xuất khẩu, trong khi tác động do xuất khẩu 
ngành lâm nghiệp được tạo ra bởi các sản đến đầu ra của toàn bộ nền kinh tế là thấp. 
phẩm cuối cùng của các ngành kinh tế khác Để tăng giá trị xuất khẩu gỗ, cần đặc biệt 
nhiều hơn giá trị tăng thêm của các ngành chú ý đến cấu trúc của rừng trồng theo 
kinh tế khác được tạo ra bởi các sản phẩm hướng chuyển đổi sang rừng trồng chuyên 
cuối cùng cho ngành lâm nghiệp. Kết quả canh gỗ lớn. 
này cho thấy ngành lâm nghiệp đóng vai trò Ngành 12 (sản xuất gỗ, giấy & các sản 
quan trọng trong việc cung cấp đầu vào đối phẩm liên quan; in) có hệ số tương quan cao 
với nền kinh tế. hơn so với trung bình nhập khẩu của ngành. 
 Kết quả phân tích kịch bản cho thấy, Điều này cho thấy nhu cầu của Việt Nam đối 
việc đạt được các mục tiêu phát triển rừng với các sản phẩm gỗ sản xuất trung gian là 
bền vững không chỉ cải thiện sự đóng góp rất cao. Do đó, để đáp ứng nhu cầu trong 
của ngành lâm nghiệp đối với GVA, mà còn nước, vẫn phụ thuộc đáng kể vào nguyên 
lan tỏa các tác động tích cực đến nhiều liệu từ nước ngoài cho chế biến các sản 
ngành kinh tế khác, đặc biệt là các ngành sử phẩm gỗ có giá trị tăng thêm cao để xuất 
dụng lâm sản làm cầu trung gian. khẩu, cũng là cơ hội để nâng cao giá trị cho 
 người trồng rừng trong nước. Cần lưu ý rằng 
 Khuyến nghị 
 xuất khẩu có thể được thúc đẩy bởi các công 
 Xu hướng tăng về nhu cầu gỗ lớn (khai ty đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và 
thác rừng), đặc biệt cho tiêu dùng trung gian các công ty này có thể sử dụng mạng lưới 
làm đầu vào cho các ngành kinh tế khác (ví sản xuất của riêng họ cũng có thể tự nhập 
dụ: Sản xuất đồ gỗ, đồ nội thất và các hàng khẩu. Để thay thế nhu cầu gỗ nhập khẩu, 
hoá khác), điều này cho thấy việc cần phải ngành lâm nghiệp phải xây dựng các chính 
xây dựng các chính sách khuyến khích người sách và cơ chế hỗ trợ để khuyến khích đầu 
trồng rừng chuyển sang trồng rừng gỗ lớn. tư trồng rừng gỗ xẻ chất lượng cao đáp ứng 
Nhu cầu về gỗ vượt quá khả năng cung tại các tiêu chuẩn quốc tế. 
Việt Nam cần được giải quyết thông qua các 
 Tóm lại, ngành lâm nghiệp cần được 
chính sách phù hợp nhằm tăng nguồn cung 
 công nhận là ngành thúc đẩy kinh tế quan 
gỗ trong nước, cải thiện năng suất rừng 
 trọng và đáng để đầu tư. Do đó, việc có 
(MAI) (bằng công nghệ nhân giống, giống 
 chính sách đầu tư phù hợp để phát triển lâm 
mới, kỹ thuật trồng), tăng khối lượng gỗ 
 nghiệp hoặc kế hoạch đầu tư bền vững cho 
bằng cách kéo dài chu kì rừng. 
 NRAP là rất cần thiết. 
 Đầu ra của ngành lâm nghiệp theo yếu 
tố cầu cuối cùng là cao nhất đối với ngành 
 Tài liệu tham khảo: 
 1. Butler, Rhett A. (2005), Nigeria has worst deforestation rate, FAO revises figures; 
 2. Baumol, William J. & Gomory, Ralph E., 1994, „On Efficiency and Comparative 
Advantage in Trade Equilibria Under Scale Economies‟, Working Papers 94-13, C.V. Starr 
Center for Applied Economics, New York University; 
 3. Bui Trinh, Pham Le Hoa (2017), „Comparing the Economic Structure and Carbon Dioxide 
Emission between China and Vietnam‟, International Journal of Economics and Financial 
Research Vol. 3, No. 3, pp: 31-38; 
 11 
 
 4. Bui Trinh and Bui Quoc (2017), „Some Problems on the Sectoral Structure, GDP Growth 
and Sustainability of Vietnam‟, Journal of Reviews on Global Economics, 2017, 6, 143-153; 
 5. Eleonora Sofilda, Agussalim, Muhammad Zilal Hamzah (2016),„Input output analysis to 
determine sustainable development planning in Indonesia‟, OIDA International Journal of 
Sustainable Development, ISSN 1923-6654 (print) ISSN 1923-6662 (online); 
 6. Fujio John. M. Tanaka (2011), Applications of Leontief‟s Input-Output Analysis in Our 
Economy; 
 7. FAO (2014), The State of Food and Agriculture Innovation in family farming, Food and 
Agriculture Organization of the United Nations Rome; 
 8. Ha, N.H.P. and Trinh, B. (2018), „Vietnam Economic Structure Change Based on 
Vietnam Input-Output Tables 2012 and 2016‟, Theoretical Economics Letters, 8, 699-708; 
 9. Keynes, J. M. (1931), „[mr. Keynes' Theory of Money]: A Rejoinder‟, The Economic 
Journal 41.163, 412-423; 
 10. Leontief, W. (1941), The Structure of American Economy: 1919-1939, Oxford 
University Press; 
 11. Ministry of Agriculture and Rural Development (2019), Summary report on 
implementation of the Agriculture and Rural Development Plan in 2018 and implementation of 
the Plan for 2019; 
 12. Miller, R., & Blair, P. (1985), Input-Output Analysis: Foundations and Extensions (pp. 
236-260); 
 13. Ministry of National Resource and Environment (2014), „The Initial Biennial Updated 
Report of Viet Nnam to the United Nations Framework Convention on Climate change‟, Viet 
Nam Publishing hHouse of Natural Resources, Environment and Cartography; 
 14. Miyazawa, K. (1976), Input-Output Analysis and the Structure of Income Distribution, 
Lecture Notes in Economics and Mathematical Systems, Berlin: Springer-Verlag; 
 15. Trinh. B. Hoa P. L, Giang. C. B (2008), „Import multiplier in input-output analysis‟, 
Deponcen WP series No. 23; 
 16. Trinh. B, K. Kobayashi (2011), „The impact of energy and air emissions in a changing 
economic structure: Input-output approach‟, VNU Journal of Science, Economics and Business 
27, No. 5E 20-24; 
 17. T. T.Thanh Tu, Bui Trinh, N. T Nhung, N. P Thao, (2016), „Finding economic structure 
and capital structure for a “Greener” economy‟, IJER Serial Publications. 13 (7). 3153-3167; 
 18. T.H. Nguyen, T. Bui (2018), „Economic Structure and Greenhouse Gas Emission of 
Vietnam‟, MAGNT Research Report, Vol.5(2). PP. 358-364; 
 19. Rohana bt Kamaruddin (2008), „An Input-output Analysis of Sources of Growth and 
Key Sectors im Malaysia‟, Modern applied science, Vol 2, N.3; 
 20. WenhuiChen, DanyunXu, JunchangLiu (2015), „The forest resources input-output 
model: An application in China‟, Elsevier, Vol. 51, Page 87-97. 
 12 

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_nhom_nganh_lam_nghiep_voi_nen_kinh_te.pdf