Mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch trong giai đoạn hiện nay
Tóm tắt
Suốt một thời gian dài, chúng ta đã được tiếp cận với những lý thuyết luận, phương pháp luận,
khoa học luận đa dạng của nhiều nhà khoa học, chuyên gia trong nhiều lĩnh vực về vấn đề bảo vệ các
giá trị văn hóa truyền thống/di sản văn hóa trong bối cảnh hiện đại hoá, toàn cầu hoá hiện nay, trong
đó có gắn với sự phát triển kinh tế mang tính quốc tế và đại chúng - du lịch. Du lịch hiện đang là một
điểm sáng (mũi nhọn) cho kinh tế Việt Nam; dân chúng tiếp nhận du khách nước ngoài với lòng hiếu
khách của văn minh, văn hóa Việt; xã hội đón nhận du lịch trong nhiều sinh hoạt thường nhật một
cách thản nhiên, du lịch sẽ gắn bó với tương lai của đất nước, là thước đo chính xác khả năng của Việt
Nam trong cách đón nhận những biến đổi lớn từ toàn cầu hóa. Tiếp bàn về vấn đề nhận thức đối với
mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch; giải pháp tạo sự cân bằng
cho mối quan hệ này là những vấn đề mà bài viết này xin được trao đổi.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch trong giai đoạn hiện nay
doanh cũng như điểm đến. Tính đặc trưng của điểm đến, sản phẩm du lịch được quy định bởi đặc điểm tự nhiên hoặc văn hóa bản địa (mà ở đây là di sản văn hóa) điển hình của địa phương, nơi sản phẩm du lịch được hình thành, phát triển. Di sản văn hóa giải quyết vấn đề sản phẩm du lịch Việt Nam Việt Nam đang sở hữu một “kho báu” để làm nền tảng thiết kế sản phẩm du lịch mà nhiều quốc gia khác không có, đó là một nền văn hóa đặc sắc, nhiều lợi thế về cảnh quan, cấu trúc và biểu hiện dấu ấn văn hóa vật chất, tinh thần. Về cảnh quan, Việt Nam có cảnh quan văn hóa đa dạng được tạo nên bởi sự thích ứng của con người trong từng dạng địa hình. Về cấu trúc, Việt Nam là một quốc gia đa sắc màu văn hóa của 54 dân tộc cùng sinh sống, thống nhất trong đa dạng. Điều đó đã tạo nên một hệ thống di sản văn hoá vật thể, phi vật thể phong phú, độc đáo, khác lạ, trong đó nhiều di sản văn hóa mang đậm dấu ấn đóng góp của văn hóa đa tộc người được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đặc biệt, Việt Nam còn hàm chứa một hệ thống di sản văn hóa thời kỳ cận hiện đại ghi dấu ấn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hệ thống di sản: các di tích lịch sử văn hóa, ẩm thực, lễ hội, các trò chơi dân gian, hàng thủ công, là những nguồn tài nguyên độc đáo, đặc sắc để làm nên cái hồn của sản phẩm du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch hiện nay. Di sản văn hóa giải quyết vấn đề gia tăng lượng khách Các hoạt động chủ yếu của du lịch bao gồm: Ăn, ở, du ngoạn, mua sắm, vui chơi giải trí (nhu cầu nội tại của con người). Tất cả các hoạt động đó ngoài việc thoả mãn nhu cầu thiết yếu của mọi thành viên trong xã hội đều mang đến những cảm nhận trải nghiệm về đặc trưng văn hóa, khát vọng về văn hóa - thể hiện sự ngưỡng mộ, theo đuổi với nền văn hóa của nơi khác. Điều đó cho thấy văn hoá với hệ thống các di sản là động cơ, là mục đích tìm kiếm của du khách bởi sự khác biệt. Đây sẽ là tác nhân tạo nên sự hấp dẫn của điểm đến, sự thu hút/lôi cuốn du khách, thúc đẩy tính lưu chuyển của dòng khách. Những ấn tượng về văn hóa làm cho du khách khó quên chuyến đi của mình và họ sẽ giới thiệu, quảng bá nâng cao những giá trị đó. Di sản văn hóa giải quyết vấn đề định vị hình ảnh, nâng cao thương hiệu du lịch địa phương/vùng/quốc gia Khai thác di sản văn hóa sẽ tạo nên các sản phẩm du lịch đặc trưng, khác biệt, giúp định vị hình ảnh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thương hiệu du lịch của một điểm đến và hình ảnh quốc gia. Tính cạnh tranh thu hút khách của một điểm đến, hình thành, định vị thương hiệu cho địa phương/vùng/quốc gia phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản: Mức độ hấp dẫn dựa trên tính khác biệt của sản phẩm du lịch so với những điểm đến khác; tình trạng môi trường (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội); sự thuận lợi trong tiếp cận điểm đến (thủ tục ra vào, phương tiện); và hình ảnh, thông tin về điểm đến. Các sản phẩm du lịch được khai thác từ tính độc đáo, riêng biệt của di sản văn hóa sẽ góp phần làm giảm sự cạnh tranh tiêu cực giữa các khu vực phát triển du lịch bởi tạo nên yếu tố không trùng lặp. Tự thân chúng sẽ hấp dẫn và thu hút du khách mà không phải dùng đến các biện Số 29 (Tháng 9 - 2019)76 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA pháp không phù hợp, giúp phát triển du lịch đồng đều ở mỗi địa phương, vùng miền. Đảm bảo sự khác biệt, tăng tính cạnh tranh, giúp định vị hình ảnh, thương hiệu cho điểm đến địa phương, quốc gia là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển du lịch của đất nước. Di sản văn hóa tạo khả năng sinh lời tại chỗ Di sản văn hóa là sơ sở tạo ra một hệ thống các sản phẩm, dịch vụ tại chỗ để đáp ứng nhu cầu của du khách đến tham quan du lịch (bán vé, sách, đồ lưu niệm, đồ ăn, chụp ảnh, khu dịch vụ bán lẻ thương mại) kích thích tiêu dùng, sản xuất ở khu vực xung quanh. Điều đó khẳng định di sản văn hóa có khả năng tạo thành tài sản, tác động kinh tế ở phạm vi vùng, khu vực, quốc gia. 3. Tạo mối quan hệ bền vững giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch trong giai đoạn hiện nay Mối quan hệ giữa di sản và du lịch tốt hay xấu tuỳ thuộc vào cách chúng ta xử lý như thế nào. Sẽ rất lý tưởng nếu kết hợp được hai mục tiêu: Phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa. Có thể đưa những “điều” này vào hai “phạm trù công việc”: Một là những công việc thuộc phạm trù văn hóa (phục dựng, bảo tồn, tôn tạo); hai là những công việc thuộc phạm trù du lịch (cơ sở, tiện nghi, hình thức thực hiện). Những tài nguyên văn hóa của dân tộc sẽ hình thành và tồn tại lâu dài, bền vững, một khi cùng tiến hành song song một cách văn hóa, hai lĩnh vực văn hóa và du lịch. Để thực hiện được mong muốn trên, cần thống nhất quan điểm giải quyết. Trong từng hoạt động mọi điểm mạnh cần phải được duy trì, phát huy; mọi điểm yếu cần phải được cải thiện, xóa bỏ. Trên thực tế, mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển du lịch hiện bộc lộ khá rõ ở các điểm di sản. Một mặt, du lịch là động lực cho sự phát triển kinh tế địa phương và là nguồn cung cấp tài chính bền vững cho di sản, nhưng mặt khác du lịch lại có thể gây hại cho di sản khi số lượng du khách tăng lên. Điều này, khiến cho mối quan hệ giữa hai bên căng thẳng và khó có thể giải quyết trong một sớm một chiều và cần có sự nỗ lực từ hai phía. Nhiều trường hợp cho thấy, việc khai thác các di sản quá mức để phục vụ du lịch sẽ dẫn đến di sản bị huỷ hoại. Dưới ảnh hưởng của du lịch, rất nhiều di sản văn hóa (cả vật thể và phi vật thể) đã bị biến dạng hoặc biến mất. Ví dụ, ở một số quốc gia trên thế giới, khá nhiều di tích phải giảm tải số lượng khách đến tham quan bằng nhiều chính sách khác nhau; một số di tích phải đóng cửa vì lượng khách đến quá lớn, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và cảnh quan di tích, cũng như tác động xấu đến sinh hoạt của cộng đồng địa phương. Nhiều lễ hội khi trở thành lễ hội du lịch đã mất hết những giá trị gốc/bản thể của nó, trở thành những sinh hoạt trần tục. Nói chung, nhiều giá trị văn hóa, những yếu tố đặc trưng, nguyên bản đã biến mất khi bị khai thác du lịch một cách thái quá, thiếu kiểm soát. Hậu quả này không nên đổ lỗi hoàn toàn cho du lịch. Cách thức quản lý, vận hành và phát triển của con người đóng vai trò quyết định trong việc du lịch tác động tích cực hay tiêu cực đối với vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Điều cơ bản là làm sao phát triển du lịch nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc, tính nguyên gốc của di sản, làm cho du lịch và di sản văn hóa không xung đột nhau mà bổ trợ, phục vụ lẫn nhau. Gánh nặng và những thách thức này được đặt lên vai của tất cả các bên liên quan đến chu trình quản lý di sản văn hóa ở một khu di tích, địa phương có di sản nhằm đảm bảo khả năng đạt được sự cân bằng giữa việc bảo tồn và phát triển bền vững tại một điểm di sản. Chính quyền địa phương, ban quản lý địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc 77Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA bảo tồn và mở hướng phát triển cho các di sản văn hóa. Điều cốt yếu là phải nhận thức rõ vai trò của di sản văn hóa đối với cộng đồng và làm mọi điều để giữ gìn cho cộng đồng cũng như nghiên cứu các biện pháp, cách thức tốt nhất khi kết hợp di sản với du lịch. Quá thương mại hóa hoặc quá bảo tồn di sản văn hóa một cách cứng nhắc không phải là phương thức lý tưởng đối với việc bảo vệ và phát huy di sản. Vì thế những chính sách, quy chế, quy định đối với bảo tồn, phát huy di sản cần linh hoạt để thu hút du khách và phòng tránh được những mặt trái mà du lịch có thể tác động. Mặc dù người dân địa phương có thể tự thân bảo vệ di sản để thể hiện đức tin, niềm tự hào, trách nhiệm của chính họ mà không phải sử dụng ngân sách Nhà nước, song không thể phủ nhận vai trò quan trọng của kinh tế đối với sự tồn tại của các di sản văn hóa trong đời sống hiện nay. Bởi ít nhất phải có kinh phí để duy trì một ban tổ chức hoạt động hiệu quả, nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cảnh quan, tôn tạo, sửa chữa, phục dựng, duy trì di sản. Hơn nữa, khi người dân được hưởng lợi từ các di sản này sẽ kích thích hơn việc tham gia tích cực từ phía họ, tình yêu di sản vì thế sẽ lớn dần lên và được duy trì một cách lâu dài, bền vững. Xét trên khía cạnh du lịch, du khách sẽ được chào đón hơn khi đến với địa phương, do người dân địa phương hiểu rằng du khách đến giúp họ phục hưng, bảo tồn chính văn hóa của họ và mang lại lợi ích kinh tế cho họ. Ngược lại, du khách sẽ cảm thấy hài lòng khi đến một nơi du lịch mà người dân nồng nhiệt, mến khách, thân thiện, môi trường hoạt động an toàn và khám phá được nhiều điều mới, lạ, độc đáo. Những nhà đầu tư, tài trợ, các doanh nghiệp kinh doanh cũng sẽ tham gia hăng hái hơn vì nhận thấy có được lợi ích mang đến cho bản thân, đơn vị. Điều đó cho thấy, việc giữ gìn, phát huy di sản văn hóa và những lợi ích từ kinh tế có mối liên kết với nhau. Và như thế, vấn đề thương mại một cách hợp lý, tuyên truyền, quảng bá cho di sản là một việc đáng làm, cần thiết trong phát triển du lịch. Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cần dựa trên quan điểm di sản văn hóa, các giá trị truyền thống đang tồn tại song hành với xã hội, phải có những biện pháp vận hành/phát huy một cách thích hợp với những yêu cầu của thời đại mới, trong bối cảnh chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội nhất định. Đây là mối quan hệ hai chiều, có sự ảnh hưởng và tác động tương hỗ lẫn nhau. Luôn xác định di sản văn hóa là một sản phẩm văn hóa, phải vận hành phù hợp với vai trò của nó trong xã hội hiện tại, phải đáp ứng nhu cầu của xã hội đương đại. Dưới góc độ du lịch, di sản văn hóa có vai trò kích thích nhu cầu du lịch/tham quan của du khách, tạo tính hấp dẫn cho điểm tham quan du lịch, xây dựng hình ảnh cho một vùng đất cũng như là tác nhân tạo sự phát triển kinh tế - xã hội, địa phương, vùng, quốc gia; hình thành loại hình du lịch thay thế và đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững. Quản lý, bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa phải có cách nhìn theo nghĩa rộng hơn, không chỉ xoay quanh việc phục hồi, sửa chữa, tôn tạo phát huy bản thân những di sản văn hóa ấy hay cứ mặc định về giá trị để du khách tự tìm đến mà còn liên quan đến các vấn đề như lập kế hoạch; nguồn nhân lực; cách thức tuyên truyền, quảng bá; tìm kiếm nguồn tài trợ/đầu tư; phát triển dịch vụ; đảm bảo về an ninh, y tế, vệ sinh môi trường, hệ thống ánh sáng; cơ sở hạ tầng Do đó, mọi quy chế, quy định khi ban hành cần tính đến những vấn đề liên quan, tác nhân có thể xảy ra và phải có sự phối kết chặt chẽ mang tính liên ngành trong công tác quản lý. Cách thức, phương pháp quản lý cũng phải linh hoạt, vận dụng cho từng trường hợp di sản cụ thể, nhất là khi hệ thống di sản văn hóa của nước ta rất đa dạng và phong phú. Số 29 (Tháng 9 - 2019)78 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Du lịch gắn liền với bảo tồn và khai thác nghiêm túc các di sản vật chất, tinh thần, hay nói cách khác là du lịch mang tính giáo dục, vì vậy, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa du lịch gắn với bảo vệ di sản. Ví như ở nước Anh có hai tổ chức xã hội sở hữu và khai thác các di sản, đó là English Heritage (Di sản Anh) và The National Trust (Niềm tin quốc gia) với các điểm tham quan rộng khắp cả nước. Hai tổ chức này phát hành thẻ hội viên hàng năm với nhiều ưu đãi để khuyến khích nhân dân và du khách nước ngoài. Các cơ sở của hai tổ chức này hầu hết là những di tích lịch sử, các địa phương gắn với thân thế những danh nhân và các khu sinh thái nhân văn. Hoạt động của hai tổ chức này thống nhất với nhau nhưng không trùng lặp. Họ thường xuyên liên lạc với các du khách thành viên. Ở đây, công tác xã hội hóa du lịch đã được thực hiện rất tốt. Tất cả những nhận định trên cho thấy, để bảo tồn, phát huy di sản văn hóa; để phát triển du lịch có lợi cho việc bảo tồn, phát huy những tinh hoa của dân tộc, cần phải lưu ý đến một số yêu cầu: 1) Khi phát triển du lịch, vấn đề bảo tồn các giá trị văn hóa phải luôn được đặt lên trên mục đích kinh tế; 2) Phải xây dựng hệ thống văn bản pháp lý trong quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch một cách cụ thể tương ứng với từng trường hợp kiểu loại di sản; 3) Phát triển du lịch trên cơ sở tôn trọng tính nguyên gốc và môi trường không gian văn hóa của di sản; 4) Thiết lập các tuyến du lịch liên kết để khai thác những nhu cầu khác nhau của du khách với đối tượng hạt nhân là các di sản văn hóa; 5) Phải có những chính sách, cơ chế phù hợp để tái đầu tư cho di sản văn hóa từ những nguồn thu du lịch; 6) Phải đảm bảo các dịch vụ, cơ sở hạ tầng, môi trường du lịch đáp ứng, thoả mãn nhu cầu của du khách; 7) Đẩy mạnh công tác xã hội hóa du lịch thúc đẩy bảo tồn di sản; 8) Phải phát huy vai trò tích cực và chủ động của người dân ở các cộng đồng, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch vào việc tham gia làm du lịch và bảo vệ di sản văn hóa. Di sản văn hóa của nước ta chỉ có thể được bảo tồn, tôn vinh nếu nó mang lại lợi ích cho xã hội đương đại, mà điều đó dễ nhìn nhận thông qua hoạt động du lịch, nhất là khi có một cách thức quản lý, điều hành tốt và hiệu quả trong hoạt động khai thác các di sản văn hóa, có được sự trân trọng, hiểu biết, tính gắn kết giữa hai lĩnh vực này. B.T.T (PGS.TS, Trưởng khoa Gia đình & Công tác xã hội, Trường ĐHVHHN) Tài liệu tham khảo 1. Bùi Hoài Sơn (2009), Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 2. Bùi Thanh Thủy (2009), “Nội hàm văn hóa du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (12), tr.45-47. 3. Bùi Thanh Thủy (2009), “Sự thích ứng của văn hóa truyền thống nhìn từ góc độ du lịch”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế Văn hóa trong thế giới hội nhập, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 4. Bùi Thanh Thủy (2013), Tác động của hoạt động du lịch đến đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng cư dân tại các khu du lịch tiêu biểu vùng đồng bằng Bắc Bộ, Đề tài cấp Bộ. 5. Tổng cục du lịch (2007), Du lịch ở các di sản văn hóa thế giới, Hà Nội. Ngày nhận bài: 16 - 6 - 2019 Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 8 - 2019 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2019
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_bao_ton_phat_huy_gia_tri_di_san_van_hoa_voi.pdf