Mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện: Thực tiễn quốc tế và bài học cho Việt Nam
Mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện (BHXHTN) là một trong những
mục tiêu quan trọng trong các chính sách đảm bảo an sinh xã hội (ASXH)
ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới. Nghiên
cứu này phân tích xu hướng phát triển và cải cách chương trình BHXHTN
trên thế giới, tìm hiểu kinh nghiệm mở rộng bao phủ BHXHTN của một số
quốc gia đang phát triển để qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam nhằm hướng đến mục tiêu mở rộng độ bao phủ BHXHTN nói
riêng và mục tiêu bao phủ ASXH toàn dân nói chung. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, điều chỉnh, bổ sung thêm chế độ hưởng BHXHTN, thay đổi theo
hướng linh hoạt hơn trong quản lý đăng ký, đóng, hưởng BHXHTN, tiếp
cận với các cam kết quốc tế về chế độ BHXHTN cho lao động di cư quốc
tế, xem xét các chính sách hỗ trợ tài chính và phi tài chính cho người tham
gia là những bài học kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam trong việc thực
hiện mục tiêu mở rộng bao phủ BHXHTN.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện: Thực tiễn quốc tế và bài học cho Việt Nam
hống mà trong đó một bộ phận lớn là lao động tự làm chủ. 4.3. Kinh nghiệm phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội tự nguyện của Thái Lan Ở Thái Lan, hệ thống BHXH được quản lý trực tiếp bởi Cơ quan ASXH (SSO) dưới sự chỉ đạo và quản lý của Bộ Lao động. SSO thành lập và quản lý hai quỹ riêng biệt là Quỹ ASXH (SSF) và Quỹ Bồi thường cho người lao động (WCF). Đối tượng tham gia vào hệ thống BHXH của SSO là người sử dụng lao động và người lao động trong khu vực tư nhân, đồng thời có sự hỗ trợ từ Chính phủ. Thời gian đóng tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí là 15 năm. Mức hưởng tối thiểu là 20% mức lương trung bình của 5 năm cuối tham gia BHXH. Cứ thêm một năm đóng góp, mức hưởng được cộng thêm 1,5 điểm phần trăm. Đặc biệt, chế độ trợ cấp trẻ em cũng là một chính sách đáng ghi nhận ở Thái Lan. Người lao động trong khu vực tư nhân tham gia BHXH với mức đóng góp là 3% vào quỹ hưu trí và trợ cấp trẻ em sẽ nhận được trợ cấp tiền mặt là 400 Bath/tháng đối với trẻ em từ 6 tuổi trở xuống. Số trẻ em nhận trợ cấp được giới hạn tối đa là hai trẻ em trong cùng một giai đoạn. Tuổi nghỉ hưu được áp dụng không thống nhất giữa hệ thống BHXH đối với khu vực tư nhân và hệ thống BHXH công hiện đang là một bất cập của hệ thống ASXH ở Thái Lan (Hình 1). Hệ thống BHXH đối với khu vực tư nhân ở Thái Lan bao phủ khoảng 30% dân số, với độ tuổi nghỉ hưu được quy định là 55 tuổi. Tuổi nghỉ hưu áp dụng cho hệ thống BHXH đóng góp do nhà nước quản lý và chương trình trợ cấp tuổi già là 60 tuổi. Trong đó, chương trình hưu trí đóng góp công bao phủ khoảng 6% dân số và chương trình trợ cấp tuổi già bao phủ khoảng 64% dân số, bao gồm cả lao động phi chính thức. Trong điều kiện Thái Lan đang phải đối mặt với sự sụt giảm lực lượng lao động do số năm lao động đang có xu hướng rút ngắn lại bởi người lao động dành nhiều thời gian hơn cho việc học tập nâng cao trình độ trước khi tham gia thị trường lao động (OECD, 2018) thì tuổi nghỉ hưu thấp chính là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự bền vững của hệ thống hưu trí ở Thái Lan. Một bất cập khác đang được nhìn nhận đó là mức đóng đối với chế độ hưu trí và trợ cấp trẻ em ở Thái Lan rất thấp (Hình 2). Với mức đóng là 6% được chia sẻ giữa người lao động và người sử dụng lao động vào hệ thống BHXH tư nhân ở Thái Lan, mức này thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Mức đóng thấp đi đôi với mức hưởng thấp là bất cập của hệ thống BHXH Thái Lan. Tuy nhiên, đây có thể được coi là định hướng chính sách quan trọng nhằm mở rộng diện bao phủ BHXH theo chiều ngang. Với việc duy trì tỷ lệ đóng thấp trong nhiều năm, đến năm 2017, có tới 81,7% người cao tuổi ở Thái Lan đã được bao phủ bởi chế độ hưu trí (ILO, 2017). GIANG THANH LONG - ĐỖ THỊ THU 53Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Bên cạnh đó, để gia tăng mức tiết kiệm hưu trí cho lao động phi chính thức, Thái Lan đã xây dựng Quỹ Tiết kiệm quốc gia (NSF) vào năm 2015. Đây là chương trình đồng đóng góp do Chính phủ Thái Lan hỗ trợ cho người lao động phi chính thức khi tham gia BHXH. Theo đó, mức hỗ trợ là 50%, 80% và 100% mức đóng cho người lao động phi chính thức tương ứng với các nhóm tuổi là dưới 30 tuổi, từ 30 đến 50 tuổi và trên 50 tuổi. Tuy nhiên, mức hỗ trợ này không vượt quá 100 Bath mỗi tháng. Hình thức hỗ trợ tài chính này được đánh giá là hiệu quả đối với nhóm lao động có thu nhập thấp và trung bình. Như vậy, những phân tích trên đã cho thấy rõ xu hướng quốc tế về phát triển chương trình BHXHTN trong hệ thống ASXH và kinh nghiệm mở rộng bao phủ BHXHTN ở một số quốc gia đang phát triển có thiết kế hệ thống BHXH khá tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan và Philippines. Đây chính là cơ sở thực tiễn quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hướng tới mục tiêu mở rộng sự tham gia BHXHTN nói riêng và mở rộng sự bao Bảng 1. Tỷ lệ đóng BHXH ở Thái Lan Chế độ Người sử dụng lao động Người lao động Chính phủ hỗ trợ Ốm đau 1,5% 1,5% 1,5% Thai sản Thương tật Tử tuất Trợ cấp trẻ em 3% 3% 1% Hưu trí Thất nghiệp 0,5% 0,5% 0,25% Ghi chú: Tỷ lệ này được quy định trong Luật ASXH Thái Lan năm 1990, có bổ sung chế độ hưu trí và trợ cấp trẻ em năm 1998 và chế độ thất nghiệp năm 2004 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ SSO (2009) Hình 1. Quy định độ tuổi nghỉ hưu và số năm hưởng chế độ hưu trí phân theo giới tính của Thái Lan so với các quốc gia trong khu vực Đơn vị: Tuổi Nguồn: OECD (2018) Mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện: Thực tiễn quốc tế và bài học cho Việt Nam 54 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 215- Tháng 4. 2020 phủ BHXH nói chung. 5. Một số bài học cho Việt Nam về mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện Từ những phân tích trên, một số bài học quan trọng có thể rút ra cho Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng bao phủ BHXHTN. Về thiết kế hệ thống, cần bổ sung thêm các chế độ ngắn hạn trong chương trình BHXHTN. Chương trình BHXHTN ở Việt Nam mới chỉ bao phủ hai chế độ (là hưu trí và tử tuất) và còn thiếu tới sáu chế độ (ốm đau, thương tật, tai nạn lao động, thai sản, thất nghiệp và trợ cấp gia đình). Nếu so với chương trình BHXH bắt buộc ở Việt Nam thì chương trình BHXHTN cũng còn thiếu tới ba chế độ (ốm đau; thai sản; tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp). Đặc biệt, đối tượng lao động phi chính thức là nhóm dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế- xã hội do điều kiện làm việc không đảm bảo, thu nhập thấp, cường độ làm việc cao (Tổng cục Thống kê, 2017). Do đó, các chế độ ngắn hạn cần được bổ sung vào chương trình BHXHTN nhằm giúp người lao động vượt qua các cú sốc đó. Sự linh hoạt về mức đóng BHXHTN được coi là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng tham gia của người lao động. Đồng thời, cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý quá trình đăng ký, đóng, hưởng BHXH là xu hướng mới mà Việt Nam cần tiếp cận và học hỏi. Về chính sách BHXHTN cho lao động di cư quốc tế: Ký kết các hiệp định song phương và đa phương về ASXH là định hướng chiến lược cần tiếp cận nhằm bảo vệ lợi ích cho lao động di cư và lao động nhập cư từ nước ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và thị trường lao động đang đứng trước ngưỡng cửa cạnh tranh quốc tế. Về chính sách ưu đãi tài chính thông qua sự tham gia hỗ trợ từ phía Chính phủ: Hình 2. Mức đóng BHXH bắt buộc ở các quốc gia trên thế giới Đơn vị: % Ghi chú: Mức đóng tính theo phần trăm của mức lương đóng BHXH bắt buộc; Màu xanh là tỷ lệ đóng của người lao động, màu xám là tỷ lệ đóng của người sử dụng lao động. Nguồn: OECD (2018) GIANG THANH LONG - ĐỖ THỊ THU 55Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Kinh nghiệm của Thái Lan, Trung Quốc cho thấy hiệu quả của chương trình hỗ trợ mức đóng. Tuy nhiên, mức hỗ trợ của Thái Lan khá cao là chìa khóa then chốt khi áp dụng giải pháp này. Ở Việt Nam hiện nay, mức hỗ trợ cao nhất mới đạt được là 30% của mức đóng tối thiểu nên dường như không tạo được sự khuyến khích tham gia đối với người lao động phi chính thức. Mặc dù vậy, việc có nên tăng mức hỗ trợ hay không cũng đòi hỏi những phân tích sâu hơn. Bên cạnh đó, hỗ trợ mức hưởng ở Phần Lan, Ba Lan cho các nhóm đối tượng đặc biệt, nhóm người lao động dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế- xã hội cũng là định hướng cải cách đáng quan tâm và có thể áp dụng được ở Việt Nam, đó là các nước này đều áp dụng mức hưởng tối thiểu. Trong những trường hợp người lao động không đạt được mức hưởng tối thiểu trong các chương trình BHXH bắt buộc, họ sẽ nhận được hỗ trợ mức hưởng để đảm bảo mức hưởng tối thiểu quy định. Để thực hiện tốt chính sách này, chiến lược cân đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển hệ thống ASXH là chiến lược quan trọng nhằm tạo thêm dư địa tài khóa cho các chương trình ASXH quốc gia. 6. Kết luận Từ việc phân tích xu hướng quốc tế về phát triển hệ thống BHXH, đặc biệt là kinh nghiệm mở rộng bao phủ BHXHTN ở một số quốc gia đang phát triển trên thế giới có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam về thiết kế hệ thống BHXH, nghiên cứu cho thấy hệ thống BHXHTN ở Việt Nam cần nhiều thay đổi mang tính dài hạn nhằm hướng đến mục tiêu Tài liệu tham khảo 1. Andrew Reilly (2018), How pension coverage is changing in OECD countries, Kỷ yếu hội thảo: 3th Pension Experts Meeting in the Asia-Pacific Region, Seoul, Korea. 2. Angelo Taningco (2018), ‘Pension coverage in the Philippines’, Kỷ yếu hội thảo: 13th Pension Experts Meeting in the Asia-Pacific Region, Seoul, Korea. 3. Fang Cai, John Giles, Philip O’Keefe and Dewen Wang (2012), The Elderly and Old Age Support in Rural China: Challenges and Prospects, The Office of the Publisher, ISBN 978-0-8213-8903-4 The World Bank, Washington DC. 4. ILO (2013), Social protection assessment based national dialogue: A good practices guide: Approaches and tools developed in East and South‐East Asia from 2011 to 2013, International Labour Organization, ISBN 978-92-2-128187-0, Bangkok, Thailand. 5. ILO (2017), World Social Protection Report 2017-19: Universal Social Protection to Achieve the Sustainable Development Goals, International Labour Organization, ISBN 978-92-2-130015-1, Geneva, Switzerland. 6. ILO và ADB (2014), Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới thịnh vượng chung và việc làm tốt hơn, Tổ chức Lao động Quốc tế và Ngân hàng Phát triển Châu Á, ISBN 978-92-2-828869-8, Hà Nội, Việt Nam. 7. ISSA (2018a), 10 Global challenges for social sercurity-Asia and the Pacific, International Social Security Association, ISBN 978-92-843-0178-2, Geneva, Switzerland. 8. ISSA (2018b), 10 Global challenges for social sercurity, International Social Security Association, ISBN 978-92-843- 0178-2, Geneva, Switzerland. 9. John Giles, Dewen Wang and Albert Park (2012), Expanding Social Insurance Coverage in Urban China, The World Bank, Research working paper 78180. 10. MOLISA (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội, Việt Nam. 11. OECD (2018), Multi-dimensional Review of Thailand: Volume 1. Initial Assessment, OECD Development Pathways, ISBN 978-92-64-29338-0, Paris. 12. SSO (2009), Annual Report 2009, Social Security Office, Nonthaburi, Thailand. 13. Tianhong Chen and John A. Turner (2014), Social Security Individual Accounts in China: Toward Sustainability in Individual Account Financing, Sustainability Journal, Switzerland. 14. Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo Lao động phi chính thức năm 2016, ISBN 978-604-89-2814-8, Hà Nội, Việt Nam. xem tiếp trang 13 VÕ XUÂN VINH - MAI XUÂN ĐỨC 13Số 215- Tháng 4. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 31. Kim, K.A. & Rhee, S.G. (2000), ‘A note on shareholder oversight and the regulatory environment: the Japanese banking experience’. 32. Kiruri, R.M. (2013), ‘The effects of ownership structure on bank profitability in Kenya’, European Journal of Management Sciences Economics Letters, 1(2), 116-127. 33. La Porta, R., Lopez‐de‐Silanes, F. & Shleifer, A. (1999), ‘Corporate ownership around the world’, The journal of finance, 54(2), 471-517. 34. Laeven, L. (2002), ‘Bank risk and deposit insurance’, the world bank economic review, 16(1), 109-137. 35. Laeven, L. & Levine, R. (2009), ‘Bank governance, regulation and risk taking’, Journal of financial economics, 93(2), 259-275. 36. Mandaci, P. & Gumus, G. (2010), ‘Ownership concentration, managerial ownership and firm performance: Evidence from Turkey’, South East European Journal of Economics and Business, 5(1), 57-66. 37. Martinez Peria, M.S. & Schmukler, S.L. (2001), ‘Do depositors punish banks for bad behavior? Market discipline, deposit insurance, and banking crises’, The journal of finance, 56(3), 1029-1051. 38. Meslier, C., Morgan, D.P., Samolyk, K. & Tarazi, A. (2016), ‘The benefits and costs of geographic diversification in banking’, Journal of International Money and Finance, 69, 287-317. 39. Nier, E. & Baumann, U. (2006), ‘Market discipline, disclosure and moral hazard in banking’, Journal of Financial Intermediation, 15(3), 332-361. 40. Pedersen, T. & Thomsen, S. (1999), ‘Economic and systemic explanations of ownership concentration among Europe’s largest companies’, International Journal of the Economics of Business, 6(3), 367-381. 41. Saunders, A., Strock, E. & Travlos, N.G. (1990), ‘Ownership structure, deregulation, and bank risk taking’, the Journal of Finance, 45(2), 643-654. 42. Shehzad, C.T., de Haan, J. & Scholtens, B. (2010), ‘The impact of bank ownership concentration on impaired loans and capital adequacy’, Journal of Banking Finance, 34(2), 399-408. 43. Shleifer, A. & Vishny, R. (1997), ‘A Survey Of Corporate Governance’, Journal Of Finance, 52(2), 737-783. 44. Shleifer, A. & Vishny, R.W. (1986), ‘Large shareholders and corporate control’, Journal of political economy, 94(3, Part 1), 461-488. 45. Võ Xuân Vinh & Mai Xuân Đức (2017), ‘Sở hữu nước ngoài và rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam’, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 33(3), 1-11. 46. Võ Xuân Vinh & Trần Thị Phương Mai (2015), ‘Lợi nhuận và rủi ro từ đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng thương mại Việt Nam’, Tạp chí Phát triển kinh tế, 26(8), 54-70. 47. Wen, Y. & Jia, J. (2010), ‘Institutional ownership, managerial ownership and dividend policy in bank holding companies’, International Review of Accounting, Banking Finance, 2(1), 8-21. mở rộng bao phủ BHXHTN nói riêng và BHXH nói chung. Cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các yếu tố (như thiết kế các chế độ hưởng BHXHTN, mức đóng- mức hưởng, các chế độ hỗ trợ tài chính và phi tài chính, thủ tục và quá trình đăng ký tham gia, đóng, hưởng BHXH, mở rộng BHXHTN với người lao động di cư quốc tế) là những vấn đề quan trọng quyết định sự thành công của mục tiêu mở rộng sự bao phủ BHXHTN mà Việt Nam có thể tiếp thu từ kinh nghiệm quốc tế. ■ tiếp theo trang 55 hàng dễ rơi vào tình trạng nới lỏng các điều kiện tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn cho tiếp theo trang 43 nền kinh tế, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn gia tăng. Biến Lạm phát (LP): Lạm phát có tác động thuận chiều đến rủi ro ngân hàng. Tức là lạm phát tăng, rủi ro các ngân hàng cũng gia tăng. Bởi ảnh hưởng của khủng hoảng năm 2008, lạm phát của nền kinh tế Việt Nam năm 2008 là 23,1%, năm 2011 là 18,68%. Vào những thời điểm này, hệ thống NHTM gặp rất nhiều khó khăn khi thị trường bất động sản đóng băng, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không thuận lợi, nhiều khó khăn dẫn đến khả năng kiệt quệ trong việc trả nợ ngân hàng... làm cho rủi ro hệ thống NHTM Việt Nam cao, và phải đối phó với khó khăn bằng nhiều cách như: cắt giảm quy mô, giảm nhân sự, siết chặt tín dụng.
File đính kèm:
- mo_rong_bao_phu_bao_hiem_xa_hoi_tu_nguyen_thuc_tien_quoc_te.pdf