Miễn trách nhiệm do có sự tham gia của bên thứ ba theo CISG 1980 và pháp luật Việt Nam
Bài viết nghiên cứu về các căn cứ miễn trách nhiệm do có sự tham gia của bên thứ ba theo
quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế (CISG 1980). Thông qua việc so sánh với một số nguồn luật khác, bài viết cũng đánh giá về sự
tương thích và ưu điểm của các quy định trong pháp luật Việt Nam và Công ước về vấn đề này,
qua đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, hướng tới sự đồng bộ và chuyên nghiệp
trong tiến trình cải cách tư pháp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Miễn trách nhiệm do có sự tham gia của bên thứ ba theo CISG 1980 và pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Miễn trách nhiệm do có sự tham gia của bên thứ ba theo CISG 1980 và pháp luật Việt Nam
ng “người thứ ba” này có thể khác biệt và tách biệt với người bán, chẳng hạn như nhà cung cấp nguyên liệu thô, nhà thầu phụ của các bộ phận bán sản xuất. Ví dụ, bên cung cấp da cho nhà máy sản xuất giày da xuất khẩu. Các nhà cung cấp nguyên liệu hoặc nhà thầu phụ là bên thứ ba, mà là bên làm nguồn cung cấp hàng hóa, nguyên liệu cho người bán theo quan điểm của Hội đồng tư vấn CISG không phải là loại “người thứ ba” được đề cập trong Điều 79.28. Ở đây, khoản 1 Điều 79 vẫn là điều khoản đối sánh để xác định trách nhiệm của người bán đối với các hành vi hoặc thiếu sót của“người thứ ba” mà người bán mặc định không thể viện dẫn trong trường hợp không thể cung cấp hàng hóa phù hợp. Tuy nhiên, một ngoại lệ nên được cho phép đối với những trường hợp rất đặc biệt, trong đó người bán không kiểm soát được sự lựa chọn nhà cung cấp khi nhà cung cấp đó là độc quyền hoặc đó là nhà cung cấp duy nhất có thể cung cấp được một lượng hàng đủ lớn theo yêu cầu. Trong trường hợp đó, mặc định nhà cung cấp có thể được coi là trở ngại thực sự ngoài tầm kiểm soát của người bán. Nhóm thứ hai: “Người thứ ba” được xác định là những người “độc lập” được bên bán giao tham gia để thực hiện trực tiếp tất 7 CISG Advisory Council, Exemption of Liability for Damages Under article 79 of the CISG. Nguồn truy cập: https://www.cisgac.com/cisgac-opinion-no7-p2/, trích dẫn ngày 20/8/2019 8 CISG Advisory Council, Exemption of Liability for Damages Under article 79 of the CISG. Nguồn truy cập: https://www.cisgac.com/cisgac-opinion-no7-p2/, trích dẫn ngày 20/8/2019 MIỄN TRÁCH NHIỆM DO CÓ SỰ THAM GIA CỦA BÊN THỨ BA... 148 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 cả hoặc một phần hợp đồng với người mua9. Tuy rằng không dễ để xác định chính xác “... Một người thứ ba đã tham gia để thực hiện toàn bộ hoặc một phần của hợp đồng...”, nhưng dường như quy định đã chỉ ra những người thứ ba đó là những người không giống như nhà cung cấp nguyên liệu hay những người phụ thuộc vào người bán. Đó không chỉ là những cá nhân hoặc pháp nhân riêng biệt mà còn độc lập về mặt kinh tế và chức năng với bên bán, bên ngoài cơ cấu tổ chức của bên bán, không thuộc phạm vi kiểm soát hoặc trách nhiệm của bên bán. Nhóm người này được cho là nằm trong phạm vi điều chỉnh của Điều 79 vì nếu bên thứ ba nằm trong sự quản lý của bên vi phạm thì hành vi của bên thứ ba cũng được đồng nhất với hành vi của bên vi phạm10. Nếu đánh đồng “người thứ ba” này có thể là người thứ ba nằm trong sự quản lý của bên vi phạm thì quy định về người thứ ba theo Điều 79 CISG sẽ không còn có ý nghĩa. Như vậy, “người thứ ba” theo Điều 79.2 của CISG phải là bên độc lập với bên vi phạm, không chịu sự kiểm soát và chỉ đạo của bên vi phạm. Đồng thời, sự tham gia của bên thứ ba phải có mục đích trực tiếp thực hiện hợp đồng chính giữa bên bán và bên mua. Khoản 2 Điều 79 CISG không áp dụng cho bên thứ ba nào đơn thuần tham gia với tư cách bổ trợ hoặc tạo tiền đề cho một bên thực thi hợp đồng chính. Ngoài ra, về cách hiểu thế nào là việc“tham gia thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng” của người thứ ba nêu trên, CISG tạm thời cũng chưa giải thích rõ. Theo tác giả Sophia Berry: “Lỗi của bên thứ ba và sự miễn trừ trách nhiệm theo Điều 79(2) của Công ước viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thực sự cần thiết cho hoạt động thương mại quốc tế hiện đại?” (“Third Party Defaults 9 CISG Advisory Council, Exemption of Liability for Damages Under article 79 of the CISG. Nguồn truy cập: https://www.cisgac.com/cisgac-opinion-no7-p2/, trích dẫn ngày 20/8/2019 10 Denis Tallon, Commentary on the International Sales Law: The 1980 Vienna Sales Convention. Nguồn truy cập: bb79.html, trích dẫn ngày 21/8/2019 and Exemption from Liability in Damages under the CISG: Is Article 79(2) Necessary for Modern International Commerce to Function Effectively?”)11 thì điều kiện này có thể được hiểu là bên thứ ba phải có quan hệ hợp đồng với bên vi phạm, đồng thời hợp đồng phụ này phải được ký sau khi hợp đồng chính giữa bên bán và bên mua được ký kết, và có tồn tại quan hệ ràng buộc giữa hợp đồng phụ với mục đích của hợp đồng chính. Nghĩa là, những việc do bên thứ ba làm có kết nối với hợp đồng chính, việc họ làm là phương tiện để thực hiện hợp đồng chính12. Để được miễn trách nhiệm, trong trường hợp “người thứ ba” tham gia thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng, phải đáp ứng điều kiện rất chặt chẽ được quy định tại Điều 79.2: (i) Bên vi phạm được miễn trách theo quy định tại Điều 79.1 và đồng thời, (ii) Người thứ ba cũng phải được miễn trách khi áp dụng các điều kiện tại Điều 79.1. Nghĩa là, việc người thứ ba không thực hiện được hợp đồng đối với bên vi phạm cũng phải do gặp“trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát” sẽ cấu thành một yếu tố để xem xét điều kiện miễn trách cho bên vi phạm khi gặp“trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát” theo quy định tại Điều 79.1. Hay nói cách khác, điều kiện cả người bán (bên vi phạm) và người thứ ba (người thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng chính giữa người bán và người mua) không thực hiện được hợp đồng đều là do gặp “trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát” là điều kiện kép cần phải được đồng thời đáp ứng. Để đáp ứng được điều kiện thứ nhất, hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng của bên thứ nhất phải do một trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát, mà trở ngại này đến từ việc người thứ ba không thực hiện hợp đồng. Tức là, việc 11 Sophia Berry, Third Party Defaults and Exemption from Liability in Damages under the CISG: Is Article 79(2) Necessary for Modern International Commerce to Function Effectively. Nguồn truy cập: edu/cisg/biblio/berry.htm, trích dẫn ngày 20/8/2019 12 Trần Thanh Tâm, Phạm Thanh Cao (2017) , “Miễn trách nhiệm do người thứ ba theo Điều 79 Công ước của Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Từ góc nhìn so sánh luật”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 07(110)/2017, tr 58-66. LÊ THỊ ANH XUÂN - NGUYỄN THỊ MINH TRANG 149Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát người thứ ba độc lập không thực hiện hợp đồng phải là một sự kiện khách quan với bên vi phạm hợp đồng mà bên vi phạm này không thể lường trước hay có thể khắc phục được. Cụ thể hơn, giả sử khi nhà cung cấp vi phạm nghĩa vụ giao hàng với bên bán (ví dụ không giao hàng hay giao hàng muộn), bên bán phải chịu trách nhiệm với bên mua về việc này vì đã chọn nhà cung cấp không phù hợp. Mặt khác, trong mọi trường hợp, bên bán luôn có thể tìm một nhà cung cấp thay thế. Trường hợp ngoại lệ chỉ xảy ra khi nhà cung cấp là độc quyền hoặc là nhà cung cấp duy nhất có thể cung cấp một lượng hàng đủ lớn theo đơn hàng của bên mua. Lúc này, bên bán không thể có một nhà cung cấp thay thế phù hợp và được coi là gặp “trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát” của bên bán khi nhà cung cấp này vi phạm hợp đồng với bên bán (điều kiện thứ nhất ở trên được đáp ứng). Tuy nhiên, khi điều kiện thứ nhất được đáp ứng thì vẫn chưa đảm bảo để bên vi phạm được miễn trách nhiệm theo Điều 80 của CISG mà cần phải xét đến điều kiện thứ hai nữa. Điều kiện thứ hai đòi hỏi người thứ ba không thực hiện hợp đồng khiến bên vi phạm vi phạm nghĩa vụ phải là do họ gặp một trường hợp trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát. Bởi vì, trong mọi tình huống, khi người thứ ba vi phạm hợp đồng với bên bán thì người thứ ba này sẽ phải bồi thường theo hợp đồng giữa họ và bên bán, và bên bán sẽ phải bồi thường cho bên mua do vi phạm hợp đồng với bên bán. Điều kiện thứ hai chỉ xảy ra khi chính người thứ ba cũng vi phạm hợp đồng với bên bán do gặp phải một “trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát” của họ (ví dụ do gặp phải động đất, thiên tai) khiến cho họ không thể cung cấp hàng hóa theo hợp đồng cho bên bán. Trong trường hợp này, bên bán sẽ không nhận được khoản bồi thường nào (do người thứ ba được miễn trách nhiệm theo Điều 79.1 CISG).13 13 Nhóm CISG 1980 Việt Nam (2016), 101 câu hỏi đáp về Công ước của Liên hợp quốc về MBHHQT (CISG 1980). Nguồn truy cập: http: viac_101cauhoidapCISG 1980_2016_15-12-2016-1046pdf.pdf, trích dẫn ngày 12/1/2019 Như vậy, có thể thấy để áp dụng điều kiện miễn trách theo Điều 79.2 CISG, bên vi phạm phải chứng minh được điều kiện kép đồng thời được áp dụng cho cả bên thứ ba và cho chính mình. Đối sánh với pháp luật Việt Nam hiện hành, Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật thương mại năm 2005 mặc dù có ghi nhận sự tham của người thứ ba trong giao dịch: “Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”14, nhưng không đặt ra điều kiện kép cho trường hợp miễn trách. Trong 04 căn cứ miễn trách ghi nhận tại Điều 294 Luật thương mại năm 2005, cũng chỉ ghi nhận 02 trường hợp có thể tiềm ẩn sự có mặt của bên thứ ba chứ không hoàn toàn là bên thứ ba thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng: Bên vi phạm được miễn trách nhiệm khi “Xảy ra sự kiện bất khả kháng”; và“Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng”. Theo đó, các hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết trước được vào thời điểm giao kết hợp đồng cũng có thể xem như là một sự kiện bất khả kháng khi các bên không thể biết trước và cũng không thể khắc phục được (Ví dụ: Quyết định đóng cửa cảng đi và cảng đến của hai nước xuất khẩu và nhập khẩu do phòng ngừa sự lây lan của đại dịch). Các điều kiện để miễn trách của pháp luật Việt Nam không quy định một cách trực tiếp nhưng cũng có nét tương đồng với khoản 1 Điều 79 của Công ước Viên 1980 về điều kiện miễn trách thông qua quy định về “Sự kiện bất khả kháng” tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015. Theo đó, các sự kiện được xem là “bất khả kháng” trong Bộ luật dân sự Việt Nam hay “trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát” của CISG đều bao gồm: Một là, sự kiện xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của các bên hay nói cách khác đây phải là sự kiện khách quan; hai là, sự kiện đó không thể lường trước được; 14 Điều 283 Bộ luật dân sự năm 2015. MIỄN TRÁCH NHIỆM DO CÓ SỰ THAM GIA CỦA BÊN THỨ BA... 150 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 ba là, hậu quả của sự kiện đó không thể khắc phục được. Tuy nhiên, từ thực tiễn án lệ của CISG cho thấy phạm vi áp dụng về trường hợp“trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát” của CISG rộng hơn so với trường hợp “bất khả kháng” trong quy định tại Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015 (quy định về thời gian không tính vào thời hiệu). Miễn trách nhiệm đặt ra khi có sự kiện “trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát” của CISG còn bao gồm cả các trường hợp do “hoàn cảnh thay đổi cơ bản” (hardship). Theo quan điểm số 07 của Hội đồng tư vấn CISG cho rằng, một sự thay đổi hoàn cảnh khi không thể được tiên liệu một cách hợp lý, dẫn đến việc thực hiện hợp đồng trở nên vô cùng khó khăn hoàn toàn có thể được xem là cơ sở miễn trách nhiệm theo Điều 79 của CISG15. Quan điểm này được xây dựng từ thực tiễn trong quá trình xét xử các tranh chấp mua bán hàng hóa quốc tế khi trên thực tế xuất hiện những trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản khiến cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kì khó khăn và bên có nghĩa vụ đưa ra yêu cầu được miễn trách nhiệm. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều tranh cãi xảy ra do CISG chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Đối chiếu với pháp luật Việt Nam, Bộ luật dân sự năm 2015 lần đầu tiên quy định tại Điều 420 về trường hợp “hoàn cảnh thay đổi cơ bản” khi hội tụ đủ các điều kiện tại khoản 1 như sau: “(i) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng; (ii) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh; (iii) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;(iv) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên; (v) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.” Dựa vào các dấu hiệu 15 CISG Advisory Council, Exemption of Liability for Damages Under article 79 of the CISG. Nguồn truy cập: https://www.cisgac.com/cisgac-opinion-no7-p2/, trích dẫn ngày 20/8/2019 của hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo quy định tại Điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015 trên đây cho thấy, các căn cứ để xác định “hoàn cảnh thay đổi cơ bản” nêu trên của pháp luật Việt Nam tương đồng với điều kiện được chấp nhận để áp dụng miễn trách nhiệm theo quan điểm số 07 của Hội đồng tư vấn CISG về trường hợp theo Điều 79.1 của Công ước. Tuy nhiên, không giống CISG, “hoàn cảnh thay đổi cơ bản” lại không là căn cứ miễn trách theo quy định của pháp luật Việt Nam và có hệ quả pháp lý hoàn toàn khác với “sự kiện bất khả kháng”. Theo quan điểm số 07 của Hội đồng tư vấn CISG và thực tiễn xét xử cho thấy khi hoàn cảnh này xảy ra, CISG có thể miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Còn tại Việt Nam, “hoàn cảnh thay đổi cơ bản” không phải là một trong các căn cứ để bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có thể được miễn trách nhiệm. Khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng được quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng. Nếu đàm phán không thành, các bên có thể yêu cầu Tòa án giải quyết và kết quả là Tòa án có thể cho phép các bên tiến hành sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Như vậy, đây là điểm rõ ràng khác biệt và có thể nói là tiến bộ hơn hẳn của pháp luật Việt Nam hiện hành so với quy định của Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế liên quan tới miễn trách. Bởi lẽ, thực tế cho thấy quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý vì bản chất sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh không phải lúc nào cũng làm cho việc thực hiện hợp đồng tại thời điểm đó là không thể thực hiện được mà chỉ khiến việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kì khó khăn mà thôi. Từ những phân tích nêu trên cho thấy, mặc dù không có quy định rõ ràng về vai trò của người thứ ba trong vi phạm của bên vi phạm như quy định của Điều 79.2 CISG nhưng các quy định tại Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 294 Luật thương mại năm 2005 đã phần nào thể hiện quan điểm khá tương đồng của Việt Nam về vấn đề miễn trách. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cần tách quy định về sự kiện bất khả kháng ra khỏi Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015 và đưa về phần giải thích các thuật ngữ để mang tính chuyên nghiệp hơn cho Bộ luật này./.
File đính kèm:
- mien_trach_nhiem_do_co_su_tham_gia_cua_ben_thu_ba_theo_cisg.pdf