Marketing 4.0 và một số giải pháp nâng cao hiệu suất triển khai tại các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mới
Ảnh hưởng sâu rộng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã mang đến cho doanh nghiệp
nhiều thay đổi trong cách thức kinh doanh và hoạt động. Bài viết này, bên cạnh làm rõ bản chất
marketing 4.0, đồng thời phân tích hiệu suất triển khai marketing 4.0 trong doanh nghiệp. Mặt
khác, trên cơ sở kiểm định mẫu nghiên cứu 158 doanh nghiệp Việt Nam, tác giả đã xác định 8 yếu
tố có tác động có ý nghĩa thống kê tích cực đến hiệu suất triển khai marketing 4.0 gồm: sự phát
triển của cách mạng công nghệ số đòi hỏi cần thay đổi mô hình kinh doanh tương thích; khả năng
thấu hiểu khách hàng; khả năng sáng tạo và đổi mới của doanh nghiệp; hoạt động truyền thông xã
hội và xây dựng thương hiệu; khả năng định mục tiêu trực tuyến; minh bạch giá cả; nguồn nhân lực
chất lượng cao; và năng lực tổ chức của doanh nghiệp. Từ kết quả nghiên cứu thu được, bài viết đề
xuất một số giải pháp triển khai và hoàn thiện marketing 4.0 ở các doanh nghiệp nước ta trong thời
gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Marketing 4.0 và một số giải pháp nâng cao hiệu suất triển khai tại các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mới
g. = 0.000) ở ngưỡng thống kê 99%. Tương tự, biến độc lập hệ thước đo trực tuyến (ON_ME) cũng không có tác động đáng kể đến hiệu quả hoạt động marketing 4.0 của doanh nghiệp tại TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 628 Việt Nam (β = 0.033, Sig. = 0.001) ở ngưỡng thống kê 99%. Nguyên nhân, có thể, hiện nay tại Việt Nam, các tương tác tự động với khách hàng trong hoạt động tư vấn, bán hàng và hậu mãi; hay các phương pháp đánh giá trực tuyến còn tương đối xa lạ với doanh nghiệp cũng như khách hàng. Một số doanh nghiệp có xác định nguồn dữ liệu về quy mô, cơ cấu và hiệu quả của hoạt động marketing nhưng phần lớn các số liệu này đều mang tính tương đối và chưa áp dụng phương pháp đo lường rõ ràng. Kết quả hồi quy cũng chỉ ra biến độc lập Nguồn nhân tài (TA_HR) có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động marketing 4.0 (β = 0.124, Sig. = 0.003) ở ngưỡng thống kê 95%. Điều này, phù hợp với nghiên cứu của Leeflang và cộng sự (2014), khẳng định chất lượng của nguồn nhân lực của doanh nghiệp càng cao thì hoạt động marketing 4.0 càng hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nhân lực trong lĩnh vực marketing của doanh nghiệp Việt Nam chưa có chất lượng đủ tốt để đáp ứng các nhu cầu của hoạt động marketing 4.0 trong thực tế do thiếu các chương trình đào tạo bài bản vàchưa bắt kịp trình độ quốc tế và yêu cầu hội nhập toàn cầu. Theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TPHCM, ngành marketing cần đến 10.000 lao động trở lên mỗi năm trong khoảng từ nay đến năm 2020 trong khi số nhân lực được đào tạo bài bản và có năng lực nghiệp vụ thực sự chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng theo dự báo của các chuyên gia, từ nay đến năm 2020, Việt Nam sẽ thiếu 400.000 nhân lực làm CNTT, tức là mỗi năm Việt Nam thiếu 80.000 người. Trong khi đó, mỗi năm thị trường chỉ cung cấp 32.000 sinh viên tốt nghiệp CNTT và các ngành có liên quan đến CNTT. Nhiều công ty tìm đủ mọi cách nhưng không chiêu mộ đủ nhân lực IT (lập trình viên, kỹ sư hệ thống mạng, thiết kế phần mềm, an ninh mạng) đáp ứng được nhu cầu chuyên môn nói riêng và hoạt động marketing 4.0 nói chung. Biến độc lập Năng lực tổ chức (OR_CA) có tác động tích cực cùng chiều đến hiệu quả hoạt động marketing 4.0 (β* = 0.143, Sig. = 0.000) ở ngưỡng thống kê 99%. Cho thấy hoạt động quản lý nội bộ càng hiệu quả thì hoạt động marketing 4.0 trong doanh nghiệp càng hiệu quả hơn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Hayes (2011). Tuy nhiên, thực tế, các doanh nghiệp ở Việt Nam chưa sở hữu năng lực tổ chức có hiệu quả cao. Cụ thể, một số doanh nghiệp có hệ thống phân cấp phức tạp, gây khó khăn cho việc hợp tác giữa các phòng ban chức năng. Ngoài ra, trong tổ chức nội bộ doanh nghiệp, marketing vẫn được coi là một bộ phận riêng biệt, hay chăm sóc khách hàng chỉ là việc của đội bán hàng (sales). Doanh nghiệp chưa có kế hoạch định hướng cho nhân viên tầm quan trọng của việc hợp tác nội bộ trong hoạt động marketing với mục tiêu tạo dựng uy tín và chỗ đứng của thương hiệu trên thị trường. Đối với các biến kiểm soát, về thâm niên, quy mô nhân sự và doanh thu bình quân năm của doanh nghiệp (AGE, SIZE, REVN) đều không có tác động đáng kể đến hiệu quả hoạt động marketing 4.0 của doanh nghiệp tại Việt Nam với ngưỡng thống kê 95%. Nếu như trước kia, hoạt động quảng bá thương hiệu diễn ra chủ yếu trên các phương tiện truyền thông truyền thống như báo chí, truyền hình, các doanh nghiệp phải có quy mô và nguồn lực tài chính lớn thì mới đủ khả năng chi trả những khoản tiền rất lớn cho hoạt động marketing. Nhưng hiện nay, các công cụ trực tuyến và mạng xã hội đã cho phép mọi doanh nghiệp tại Việt Nam ở quy mô nhỏ và vừa, thậm chí những doanh nghiệp vừa mới thành lập có thể ngay lập tức triển khai kế hoạch quảng bá thương hiệu và xâm nhập vào thị trường kinh doanh do chi phí cho hoạt động marketing trực tuyến là không cao. Ngoài ra, các hoạt động marketing 4.0 thường rất linh động và hoàn toàn có thể được triển khai hiệu quả và phù hợp với từng mô hình kinh doanh và quy mô doanh nghiệp từ nhỏ đến lớn nên các biến kiểm soát trên không có nhiều tác động đáng kể đến hoạt động marketing 4.0. 7. Một số giải phám v h m ý chính sách Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất ra một số giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp tăng cường hiệu quả khi triển khai hoạt động marketing 4.0 tại Việt Nam. Các giải pháp đưa ra được dựa trên các yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động marketing 4.0 đã được đề cập. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 629 Đề xuất giải pháp phát triển m rketing 4.0 đối với doanh nghiệp Thứ nhất, doanh nghiệp cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) nhằm phân tích thị hiếu khách hàng và lên phương án kinh doanh hiệu quả. Xu hướng ứng dụng công nghệ và phân tích dữ liệu số trong hoạt động marketing không những đảm bảo tạo thuận lợi cho khách hàng trong quá trình tiếp cận sản phẩm, mà còn giúp doanh nghiệp tối ưu hóa các mô hình kinh doanh truyền thống. Cơ sở hạ tầng cần có mạng phủ sóng toàn bộ doanh nghiệp nhằm đảm bảo đường truyền thông tin lưu chuyển nhanh chóng và chính xác giữa các bộ phận. Hiện nay có nhiều phần mềm tích hợp các hoạt động riêng lẻ trong doanh nghiệp thành một quy trình khép kín, cho phép sự tương tác diễn ra nhanh chóng, nâng cao hiệu quả và chi phí quản lý doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp xem xét việc ứng dụng nền tảng điện toán đám mây. Đây là một ứng dụng cho phép doanh nghiệp sử dụng dịch vụ thu thập và tính toán qua Internet với một đường truyền băng thông đủ lớn mà không cần phải sở hữu và đầu tư vào hệ thống máy chủ và phần mềm phức tạp, tốn kém. Thứ hai, các nhà hoạt động marketing 4.0 cần chú trọng đến sự sáng tạo và hiệu quả trong việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động marketing 4.0. Trong kỷ nguyên số hóa, các công nghệ được ứng dụng trong marketing 4.0 không khó để sao chép. Năng lực cạnh tranh của các nhãn hàng đến từ việc họ sử dụng công nghệ như thế nào và sáng tạo ra sao trên nền tảng các công cụ công nghệ 4.0. Do vậy, doanh nghiệp cần đầu tư, tìm kiếm nội dung thú vị, bổ ích nhằm thu hút người tiêu dùng như sử dụng các hình ảnh quảng cáo trực quan, bắt mắt, các video có nội dung hài hước, hay sâu sắc nhưng vẫn nêu bật được giá trị của sản phẩm tiếp thị. Thứ ba, doanh nghiệp cần phải xem xét áp dụng nhiều phương thức tiếp cận và tương tác thông qua mạng xã hội, cho phép người dùng tham khảo và có nhiều lựa chọn hơn khi quyết định mua sắm một sản phẩm nào đó. Sự chuyển dịch từ thói quen xem truyền hình và đọc báo giấy sang việc tham khảo các kênh truyền thông trực tuyến của người tiêu dùng khiến doanh nghiệp cần phải xem xét thay đổi phương thức tiếp cận khách hàng như phân bổ lại ngân sách hợp lý cho kênh quảng cáo truyền thống và kênh quảng cáo trực tuyến. Đối với các doanh nghiệp trẻ, có quy mô chưa lớn thì việc sử dụng các mạng xã hội trong hoạt động marketing 4.0 mang lại hiệu quả cao trong khi vẫn tiết kiệm chi phí. Thứ tư, các nhà quản lý doanh nghiệp cần trang bị đầy đủ kiến thức về marketing trực tuyến, cập nhật công nghệ thông tin thường xuyên, có kiến thức về kinh tế xã hội trong nước và quốc tế để thực hiện tốt vai trò giám sát và quản lý các hoạt động marketing 4.0. Về mặt tổ chức bộ máy quản lý, doanh nghiệp nên có những bộ máy đơn giản, ít phân cấp, cho phép nhân lực của toàn doanh nghiệp tham gia vào hoạt động marketing 4.0. Về mặt nhân lực, nên có các kế hoạch bồi dưỡng nhân viên marketing về nghiệp vụ IT, phân tích dữ liệu trên cơ sở các phần mềm và ứng dụng tiên tiến để tối đa hóa hiệu quả của hoạt động marketing 4.0. M t số hàm ý chính sách Tại các nước đang ở giai đoạn đầu trong công cuộc phát triển thương mại và các hoạt động marketing như Việt Nam, chính phủ có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển không ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và các hoạt động tiếp thị số nói riêng. Ngoài việc quản lý nhà nước lành mạnh và có chính sách ưu đãi hợp lý, Chính phủ cần đóng vai trò là người quản lý có khả năng khuyến tạo, giúp các doanh nghiệp liên tục đổi mới sáng tạo, biết nắm bắt nhanh chóng các cơ hội nhằm cạnh tranh và tăng trưởng lành mạnh. Ngoài ra, chính phủ cần thúc đẩy việc ứng dụng các công nghệ thông minh đặc trưng của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. Thứ nhất, chính phủ cần tiếp tục nâng cấp đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, có để khuyến khích các hoạt động ứng dụng công nghệ thông minh, tiên tiến và hiện đại. Thứ hai, Chính phủ nên có những cải tổ nhất định về pháp luật và quy chế nhằm khích doanh nghiệp ứng dụng các công nghệ điện toán đám mây vào trong hoạt động marketing. Thứ ba, cần có một chiến lược tổng thể, dài hơi giúp các doanh nghiệp với quy mô nhỏ có khả năng bắt kịp sự chuyển dịch của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. Thứ tư, chính phủ cần lập ra một hội đồng chuyên phụ trách giám sát, quản lý thống nhất các bước TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 630 phát triển của hoạt động marketing tại Việt Nam để đưa ra những chiến lược đúng đắn nhằm đưa các hoạt động kinh tế nói chung và các hoạt động marketing nói riêng của doanh nghiệp trong nước đến gần hơn với sự phát triển của thế giới. 8. Kết luận Trên cơ sở phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình triển khai hoạt động marketing 4.0 từ mẫu nghiên cứu 158 doanh nghiệp Việt Nam, bài viết đã xác định 8 yếu tố có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động marketing 4.0 gồm: sự phát triển của cách mạng công nghệ số đòi hỏi cần thay đổi mô hình kinh doanh tương thích; khả năng thấu hiểu khách hàng; khả năng sáng tạo và đổi mới của doanh nghiệp; hoạt động truyền thông xã hội và xây dựng thương hiệu thương hiệu; khả năng xác định khách hàng mục tiêu trực tuyến; minh bạch giá cả; nguồn nhân lực chất lượng cao; và khả năng tổ chức và năng lực của doanh nghiệp. Bài viết làm rõ những thách thức ở hiện tại và trong tương lai doanh nghiệp có thể gặp phải cùng giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động marketing 4.0 của doanh nghiệp tại Việt Nam. Nhìn chung, ở thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam đang thích ứng khá nhanh và có hướng đi hoạt động marketing 4.0 tương đối đúng đắn trong môi trường kinh doanh của thời đại số hóa. Bài viết cũng đề cập tới một vài giải pháp có khả năng khắc phục được tác động tiêu cực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động marketing 4.0. Theo đó, doanh nghiệp cần thực hiện các giải pháp cụ thể như phân tích, nghiên cứu và thay đổi một cách phù hợp các mô hình kinh doanh truyền thống thông qua các công nghệ thông tin, phần mềm, công cụ hiện đại; chủ động xây dựng các chiến lược marketing sau khi phân tích dữ liệu có được từ các kênh truyền thống vả trực tuyến; tích cực bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên marketing; có kế hoạch ngắn hạn và lâu dài cho sự phát triển thương hiệu và sản phẩm; thúc đẩy các ý tưởng mới và cải tiến trong hoạt động marketing, tránh phụ thuộc quá nhiều vào số liệu có sẵn. Ngoài ra, trong bối cảnh phát triển không ngừng và nhanh chóng của công nghệ toàn cầu, Chính phủ cũng cần đóng vai trò đầu tầu, tạo môi trường tập hợp các doanh nghiệp để cùng họ bàn luận và đưa ra những quyết sách có sức khuyến tạo mạnh mẽ, giúp các doanh nghiệp trong nước liên tục đổi mới sáng tạo và nhạy bén nắm bắt các cơ hội nâng cấp nền tảng chiến lược cho cạnh tranh và tăng trưởng TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Davenport, T. H. (2006), “Competing on Analytics”, Harvard Business Review, 48(1), 99–107. 2. Godes D., Silva J. C. (2012), “Sequential and temporal dynamics of online opinion”, Marketing Science, Volume 31, Issue 3, Pages 448–473. 3. Hayes, J. (2011), “How we see it: Three senior executives on the future of marketing”, McKinsey Quarterly, 7, 1–10. 4. Kotler Philip, Kartajaya Hermawan, Setiawan Iwan (2017), Marketing 4.0: Moving From Traditional to Digital, John Wiley & Sons. 5. Nguyễn Bách Khoa (2014), Chiến lược kinh doanh dựa trên giá trị và tri thức của DN VN, Tạp chí Khoa học Thương mại 6/2-14 6. Leeflang Peter S.H., Verhoef Peter C., Dahlström Peter, Freundt Tjark (2014), “Challenges and solutions for marketing in a digital era”, European Management Journal, Volume 32, Issue 1, Pages 1-12 7. McAfee, A. & Brynjolfsson, E. (2012), Race against the machine: How the digital revolution is accelerating innovation, driving productivity, and irreversibly transforming employment and the economy, MIT center for Digital Business. 8. Lamey, L., Deleersnyder, B., Dekimpe, M. G., & Steenkamp, J. B. E. M. (2007), “How business cycles contribute to private-label success: Evidence from the United States and Europe”, Journal of Marketing, 71(1), 1–15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 631 9. Nielsen (2007), “Word-of-Mouth the most powerful selling tool”, Nielson Global Survey 10. Nguyễn Trọng Tấn (2013), “Xây dựng thương hiệu trong kỷ nguyên số: Ứng dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam”, Báo cáo thường kỳ - Chiến lược marketing trong kỷ nguyên số. 11. Vassileva Bistra (2017), “Marketing 4.0: How Technologies Transform Marketing Organization”, Óbuda University e-Bulletin, Vol. 7, No. 1. 12. Reinders, M. J., Dabholkar, P. A., & Frambach, R. T. (2008), “Consequences of forcing consumers to use technology-based self-service”, Journal of Service Research, 11(2), 107–123. 13. Nguyễn Hoàng Việt (2014), Phát triển chiến lược TMĐT cho các DNVN, NXB Thông tin truyền thông, Hà Nội Abstract Marketing 4.0: Introcduction and Study on Its Development Performance in Vietnam Companies The inductrial revolution 4.0 has made changes in business modes and tool of companies. Paper‟s aims are not only to bring out the meanings of marketing 4.0 conception but also to carry the study on the factors affecting its development performances at Vietnam companies which are applying online business or commerce. Having tested on a set of primary date from 158 Vietnam companies with the sample size of 345 anserers – members administrative conncil, directory board, CEOs in concering with marketing and business functions in these companies, the outhors estabilished the research model with correlative metrix of 10 independent variables and the dependent one then by multirecurrent analysis the paper pointed out to the contributions of each factor derectly affecting this dependent variable in accordance with their statistic significant important order including 3 groups: in the first – the highest important group is factor of organizational capabilities; then there are by turn Talent human resource, Digital revolution and business model, Creativity and innovation; ferther the 3 rd one consists of Price tranparency, Social media and brand healthy, Online targeting. Finally, the authors propose some solutions and policy implication to improve marketing 4.0 development in Vietnam companies in comming years. Kerword: Marketing 4.0, Vietnam Companies, revolution 4.0
File đính kèm:
- marketing_4_0_va_mot_so_giai_phap_nang_cao_hieu_suat_trien_k.pdf