Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên

Nước ta đã có hàng nghìn năm lịch sử, nhưng mãi đến thế kỷ XIII mới có

người chép sử. Lê Văn Hưu (1230 - 1372) chính là nhà sử học Việt Nam đầu tiên3. Ông

còn là vị Bảng nhãn đầu tiên và trẻ nhất trong tổng số 48 vị Bảng nhãn của lịch sử khoa

cử Nho học Việt Nam (1075 - 1919). Tên tuổi ông thật sự nổi bật.

Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên trang 1

Trang 1

Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên trang 2

Trang 2

Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên trang 3

Trang 3

Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên trang 4

Trang 4

Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên trang 5

Trang 5

Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên trang 6

Trang 6

Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 4840
Bạn đang xem tài liệu "Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên

Lê Văn Hưu người xứ Thanh, nhà sử học Việt Nam đầu tiên
ộ Đại 
Việt sử ký của Lê Văn Hưu và của Phan Phu Tiên tham khảo thêm Bắc sử, dã sử, các 
bản truyện chí và những việc nghe thấy truyền lại, rồi khảo đính, biên tập mà thành”6. 
Ngày xưa, trong việc biên soạn lịch sử, các tác giả chép lại của nhau là chuyện thường 
tình. Bấy giờ chưa có luật bản quyền, hơn nữa đây không phải là sáng tác văn học. Vì 
vậy, có thể thấy được bóng dáng của Đại Việt sử kỷ qua Đại Việt sử kỷ toàn thư. Đặc 
biệt, có 30 lời bàn những sự kiện, hiện tượng và nhân vật lịch sử ghi rõ là “Lê Văn Hưu 
nói”. 30 lời bàn này đã được Lê Huy Trâm sưu tầm và chú thích, đánh số thứ tự từ 1 đến 
30 trong sách Lê Văn Hưu và chương trình nghiên cứu danh nhân Thanh Hóa (Kỷ yếu 
hội thảo khoa học) Trường Cao đẳng Sư phạm Thanh Hóa xuất bản năm 1993, từ trang 
253 đến trang 264. Trong bài này, khi trích dẫn các lời bàn chúng tôi sẽ theo thứ tự này. 
Qua 30 lời bàn đó, có thể thấy được về cơ bản quan điểm, phương pháp và sử bút của 
Lê Văn Hưu.
 3. Trước hết, sử gia Lê Văn Hưu luôn luôn tự hào về đất nước Đại Việt của mình7. 
Nói theo ngôn ngữ hiện đại, ông có lòng tự hào dân tộc mãnh liệt gắn liền với bối cảnh 
văn hóa xã hội thời đại ông. Đại Việt sử kỷ ra đời vào giai đoạn nằm giữa 2 cuộc chiến 
tranh chống ngoại xâm 1258 và 1285 từng được các tác giả Cuộc kháng chiến chống 
xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII mô tả khá cụ thể: “Thăng Long giải phóng. Những 
ngày thanh bình trở lại trên đất nước. Dân nghèo và nô tì theo vương hầu đi khai hoang. 
Những người thợ nề xây chùa Phổ Minh. Nhà sử học Lê Văn Hưu cặm cụi hoàn thành 
bộ sử của mình và Hàn Thuyên làm thơ nôm đuổi cá sấu ở sông Hồng. Nhưng không
5 Các tài liệu chép tiểu sử Lê Văn Hưu chỉ ghi ngắn gọn năm sinh, năm thi đậu và chức vụ khi hoàn thành 
bộ Đại Việt sử kỷ. Những thông tin bổ sung ở trên chúng tôi dựa vào các tài liệu sau: a/ Lê Thị gia phả, 
bản do ông Tống Kim Chung cung cấp. Những chỗ gia phả ghi không phù hợp chính sử thì lược bỏ. b/Lê 
Trắc: An Nam chí lược. c/ Phan Huy Ôn: Lịch triều đăng khoa bị khảo.d/Hồng Đô Chư Cát thị: Tân đính 
hiệu bình Việt điện u linh. Xin xem: Lê Văn Hưu và chương trình nghiên cứu danh nhân Thanh Hóa (Kỷ 
yếu hội thảo khoa học), Trường Cao đẳng Sư phạm Thanh Hóa, 1993, tr 300, 301, 267, 269, 270.
6 Đại Việt sử kỷ toàn thư, Nxb Văn hóa Thông tin. H.2003, T1, tr.127.
7 Nước ta từ thời họ Khúc đến thời nhà Ngô (905 - 965) chưa thấy sử chép quốc hiệu. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh 
lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt. Năm 1054, Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt.
44
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
phải chỉ như vậy. 1258 - 1284 còn là thời kỳ những sứ bộ Mông Cổ phóng ngựa lao vào 
cửa kinh thành và những đoàn thuyền tiến lên tập trận ở sông Bạch Hạc”8.
 Dĩ nhiên, cũng như mọi sử gia xưa, với ông quốc gia Đại Việt gắn liền với cơ 
nghiệp đế vương. Ở lời bàn thứ nhất, ông khen Triệu Vũ đế (Triệu Đà): . .tự xưng làm
đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “lão phu”, mở đầu cơ nghiệp đế 
vương cho nước ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy”. Từ đó, ông bình luận: “Người làm 
vua nước Việt sau này đều biết bắt chước Vũ đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân 
quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được 
lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được”. Các sử gia hiện nay đều xem 
Triệu Đà là kẻ xâm lược. Tuy vậy, phải thấy quan niệm của Lê Văn Hưu cũng là quan 
niệm phổ biến xưa từ Trần Hưng Đạo cùng thời với ông đến các danh sĩ về sau như 
Nguyễn Trãi, Ngô Sĩ Liên, Lê Tung9.
 Ở lời bàn thứ 3, ông hào hứng ca ngợi Hai Bà Trưng: “.h ô một tiếng mà các 
quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng, việc 
dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng 
được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng 
hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người phương Bắc, há 
chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ 
mình vậy”.
 Lời bàn thứ 9, ông đánh giá Ngô Quyền: “Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới 
họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước 
xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn 
giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên 
ngôi đế, đổi niên hiệu nhưng chính thống của nước Việt ta ngõ hầu đã nối lại được”. 
Trong lúc đó, Tự Đức (ở ngôi 1848 - 1883) lại hạ lời phê: “Ngô Quyền gặp được ngụy 
triều Nam Hán là một nước nhỏ, Hoằng Tháo là thằng hèn kém. Đó là một việc may, có 
gì đáng k h e n .”10. Thật đúng văn là người! Lời phê vừa bộc lộ thói kiêu ngạo của một 
ông vua coi thường ý kiến các danh sĩ tiền bối, đồng thời lại thể hiện tính tự ti dân tộc 
trước Thiên triều Trung Hoa!
8 Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII , bản in lần 4, 
Nxb Khoa học Xã hội, H.1975, tr 80.
9 Lúc sắp mất, vua Trần hỏi kế sách giữ nước, lời đầu tiên Trần Quốc Tuấn nói: “Ngày xưa Triệu Võ đế 
dựng nước, vua Hán cho quân đánh thì nhân dân làm kế thanh d ã . ” Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn 
Trãi viết (dịch): Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên 
làm đế một ph ư ơ n g .
10 Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, 2007. T1, tr211.
 45
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
 Tiêu chí để đánh giá sự kiện, nhân vật của Lê Văn Hưu chính là lợi ích của quốc 
gia, dân tộc. Chính dựa vào tiêu chí này ông ca ngợi hết lời Hai Bà Trưng, Ngô Quyền 
và phê phán những người chỉ biết cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người phương Bắc. Tiếp 
đó, cũng dựa vào tiêu chí này ông khen Đinh Bộ Lĩnh: “có tài năng sáng suốt hơn 
người, dũng cảm mưu lược nhất đời... mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm 
quan, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh ra bậc thánh triết để tiếp 
nối quốc thống của Triệu vương chăng?” (lời bàn thứ 12). Ông khen Lê Hoàn trừ nội 
phản, diệt ngoại xâm: “dễ như lừa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi 
định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được” 
(lời bàn thứ 14). Đối với các quan lại người phương Bắc cũng vậy. Ông khen Lữ Gia 
ngăn Ai vương và Cù Thái hậu không nên xin làm chư hầu nhà Hán, không triệt bỏ cửa 
quan ở biên giới là “biết trọng nước Việt” (lời bàn thứ 2); Khen Sĩ Nhiếp “chịu nhún 
mình thờ nước lớn để giữ vẹn bờ cõi” (lời bàn thứ 5).
 4. Tiêu chí thứ 2 để đánh giá nhân vật, sự kiện của Lê Văn Hưu là lợi ích của dân. 
Ở ông luôn thể hiện lòng yêu dân, tư tưởng thân dân rõ nét. Người ta thường cho rằng 
ông là bậc đại Nho luôn bài xích Phật giáo. Cũng có người băn khoăn là ông sống ở thời 
đại Phật giáo thịnh hành, lại nữa ở quê hương ông người dân rất chuộng đạo Phật. Thật 
ra, ông chỉ đứng trên lập trường duy lý Nho giáo để phê phán tệ sùng tín mê muội của 
tín đồ Phật giáo cũng như Đạo giáo như lời bàn thứ 25 phê phán Lý Thần Tôn: “Thái 
phó Lý Công Bình phá được quân Chân Lạp cướp châu Nghệ An, sai người báo tin 
thắng trận. Thần Tôn đáng lẽ phải cáo thắng trận ở Thái miếu, xét công ở triều đường để 
thưởng cho bọn Công Bình về công đánh giặc mới phải. Nay lại quy công cho Phật và 
Đạo, đến các chùa quán để lạy tạ, như thế không phải là cách để úy lạo kẻ có công, cổ lệ 
chí khí quân sĩ’. Hãy xem ông phê phán Lý Thái Tổ trong lời bàn thứ 18: “Lý Thái Tổ 
lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng 8 
chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ và cấp độ điệp cho hơn nghìn 
người ở kinh sư làm tăng, thế thì tiêu phí của và sức dân vào việc thổ mộc không biết 
chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, 
há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm phúc 
chăng? Bậc vua sáng nghiệp tự mình cần kiệm còn lo con cháu ngày sau xa xỉ lười 
biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại cho con cháu như thế, chả trách đời sau xây tháp cao 
ngất trời, tạo cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cung v u a .”. Rõ ràng ở 
đây ông chỉ bài bác ông vua mê Phật giáo hành động quá đáng làm hại của cải, sức lực 
“vét máu mỡ của dân” mà thôi! Hay trong lời bàn thứ 28, ông phê phán Lý Thần Tôn: 
“Trời sinh ra dân mà đặt vua để chăn dắt, không phải để cung phụng riêng cho vua. 
Lòng cha mẹ ai chẳng muốn con cái có gia thất, thánh nhân có lòng ấy còn sợ kẻ sất phu
46
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
sất phụ không được có nơi có chốn. Cho nên Kinh thi tả sự ấy trong thơ “Đào yêu” và 
“Xiếu hữu mai” để khen việc lấy chồng kịp thời và chê việc lỡ thì vậy. Thần Tôn xuống 
chiếu cho con gái các quan phải đợi khi tuyển vào cung không trúng mới được lấy 
chồng, thế là để cung phụng riêng cho mình, có phải là lòng làm cha mẹ dân đâu?” Tấm 
lòng thương dân của Lê Văn Hưu thật đáng trân trọng!
 Cần chú ý thêm là có lúc lòng thương dân kết hợp chặt chẽ với ý thức dân tộc 
khiến nhà sử học có lời bàn thứ 4 thật xúc động lòng người: “Xem sử, đến thời nước 
Việt ta không có vua, bị bọn Thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ, Bắc kinh (chỉ kinh đô 
của người phương Bắc, không phải danh từ riêng Bắc Kinh hiện nay - HSH chú) đường 
xa, không kêu vào đâu được, tự nhiên thấy vừa cảm vừa thẹn, mong lòng tinh thành như 
Minh Tông nhà Hậu Đường, thường thắp hương khấn trời, xin trời vì nước Việt ta sớm 
sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà, để khỏi bị người phương Bắc cướp vét”.
 5. Tiêu chí thứ 3 để đánh giá nhân vật, sự kiện của Lê Văn Hưu là đức, lễ, hay lễ 
nghĩa, đạo đức. Dĩ nhiên, đây là lễ nghĩa, đạo đức Nho giáo. Ở lời bàn thứ 5 ông khen 
Sĩ Nhiếp là người “khoan hậu, khiêm tốn”; lời bàn thứ 11 khen Ngô Xương Văn tha tội 
cho Dương Tam Kha là “nhân”, chịu nhịn Ngô Xương Ngập là “cung”. Ông chê Đinh 
Tiên Hoàng “chìm đắm trong tình riêng, cùng lập 5 Hoàng hậu” (lời bàn thứ 13 ); chê 
các con Lê Đại Hành không đặt thụy hiệu cho bố (lời bàn thứ 15); chê Đại Hành không 
sớm đặt Thái tử để đến nỗi nhà Lê mất ngôi (lời bàn thứ 16); chê Lý Thái Tổ đã xưng đế 
mà chỉ truy phong cha là Hiển Khánh Vương (lời bàn thứ 17); chê Lý Thái Tông bắt các 
quan gọi mình là “triều đình”, Lý Thánh Tông tự xưng là “Vạn Thặng”, Lý Cao Tông 
bảo gọi mình là “Phật” (lời bàn thứ 21) v.v...
 Đức là tiêu chuẩn cao nhất để ông so sánh Lê Đại Hành và Lý Thái Tổ: “Kể về 
mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người 
Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt 
tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại 
Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư? Đáp: hơn 
thì không biết, chỉ thấy đức họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nên noi theo họ Lý” (lời bàn 
thứ 14). Điều đáng chú ý là chịu sự tác động mạnh mẽ của ý thức dân tộc, có lúc bậc đại 
Nho Lê Văn Hưu đã đi ngược lại tư tưởng Nho giáo truyền thống Trung Quốc là phân 
biệt Hoa Hạ và Man Di nặng nề. Ở lời bàn thứ nhất, ông nói: “Đại Thuấn là người Đông 
Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ Đế; Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền 
trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa 
hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi”. Nhưng “Đức” ở đây quả thật chưa từng có trong lễ 
nghĩa Nho giáo Trung Hoa.
 47
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
 6. Đánh giá Đại Việt sử ký, Ngô Sĩ Liên trong bài tựa Đại Việt sử ký toàn thư 
(1479) vừa khen: “Văn Hưu là đại thủ bút đời Trần,... vâng chiếu chép lịch sử nước 
nhà, tìm khắp các sách sử còn lại, tóm chép thành sách, để cho người xem sau này 
không còn tiếc nữa là được”; vừa chê: “ghi chép có chỗ chưa đủ, nghĩa lệ còn có chỗ 
chưa đúng, văn tự còn có chỗ chưa ổn, người đọc không khỏi còn có chỗ chưa vừa ý”. 
Trong bài tựa Đại Việt sử ký tục biên (1665) Phạm Công Trứ chỉ khen: “... nghĩa lớn 
khen chê đã rành rành ở lời công luận của bút chép sử”. Trong bài tựa Đại Việt thông sử 
Lê Quý Đôn (1726 - 1784) vừa khen: “sử đời Lý của Văn Hưu, sử đời Trần của Phu 
Tiên gọn gàng đúng đắn có thể dùng được” ; vừa chê: “nhưng về điển chương của một 
triều đại thì bỏ nhiều, không thấy chép, người xem phải lấy làm tiếc”. Theo Lê Quý 
Đôn, 2 bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và của Phan Phu Tiên đều chép theo thể biên 
niên. Thiếu sót của Lê Văn Hưu và của Phan Phu Tiên cơ bản cũng là thiếu sót chung 
của các sử gia xưa chép theo thể này. Còn chỗ Ngô Sĩ Liên chưa vừa ý thì cũng dễ hiểu. 
Cả hai đều là bậc đại Nho, nhưng Lê Văn Hưu chịu nhiều ảnh hưởng Nho giáo nguyên 
thủy Khổng Mạnh có yếu tố đạo đức nhân bản tích cực mà ít chịu ảnh hưởng tư tưởng 
bảo thủ Hán Nho, Tống Nho; còn Ngô Sĩ Liên thì trái lại11. Vì vậy, quan niệm về 
“nghĩa lệ” của 2 ông khác hẳn nhau. Ở lời bàn thứ 28 đã nói ở mục 4 trên, chúng ta trân 
trọng tấm lòng thương dân của Lê Văn Hưu bao nhiêu càng trách Ngô Sĩ Liên bấy nhiêu 
khi ông cho việc làm của Lý Thần Tôn là “chưa lấy gì làm quá”. Hay như việc Lê Văn 
Hưu ca ngợi Lê Hoàn trong lời bàn thứ 14 đã nói ở mục 3 thì Ngô Sĩ Liên lại phản bác: 
“Lời bàn của Lê Văn Hưu lại đánh đồng (Điền, Bặc) với hàng loạn tặc, khiến cho đạo 
nhân luân không được sáng tỏ với đời sau, gây mầm tiếm đoạt, để cho những kẻ có 
quyền lực tranh nhau bắt chước, quét sạch cương thường, vì thế không thể không biện 
bác”. Ở chỗ này, GS Hà Văn Tấn nhận xét: “Lê Văn Hưu “thoáng” hơn Ngô Sĩ Liên”11 12 
 Tóm lại, qua bóng dáng thấp thoáng của Đại Việt sử ký trong Đại Việt sử ký toàn 
thư, nhất là qua 30 lời bàn sử còn lại, có thể thấy Lê Văn Hưu là nhà sử học rất tiến bộ. 
Những lời bình sử thấm đẫm tinh thần yêu nước thương dân, tinh thần đạo đức và ý 
thức dân tộc của ông mãi mãi vẫn còn nguyên giá trị. Ông xứng đáng là một trong 
những nhà sử học hàng đầu của nước ta.
11 Xin xem Hồ Sĩ Hùy: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tinh hoa Nho giáo trong Tạp chí Khoa học Xã 
hội và Nhân văn Nghệ An số 3 tháng 6/2011, tr 44 - 47; Hà Văn Tấn: Hệ thống giá trị của Lê Văn Hưu và 
bối cảnh văn hóa xã hội trong sách Lê Văn Hưu và chương trình nghiên cứu danh nhân Thanh Hóa (Kỷ 
yếu hội thảo khoa học)Sđd, tr 48.
12 Xin xem Hà Văn Tấn: Hệ thống giá trị của Lê Văn Hưu và bối cảnh văn hóa xã hội trong sách Lê Văn 
Hưu và chương trình nghiên cứu danh nhân Thanh Hóa (Kỷ yếu hội thảo khoa học) Sđd, tr 63.
48
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
 LE VAN HUU, THE FIRST VIETNAMESE HISTORIAN
 Ho Sy Huy, M.A 
 Assoc.Prof.Dr. Tran Van Thuc
 Abstract: Our country has experienced thousands of years of history, but it was not 
 until the thirteenth century that an annalist appeared. Le Van Huu (1230 - 1372) was 
 the first Vietnamese historian. He was also the youngest of 48 Bang nhan (who got 
 the second prize in the Imperial Examination) in Vietnamese history of Confucian 
 examination (1075 - 1919). His name is quite outstanding.
 Key words: historian Lê Văn Hưu, “Đại Việt sử kỷ”, second prize, history, 
culture...
 49

File đính kèm:

  • pdfle_van_huu_nguoi_xu_thanh_nha_su_hoc_viet_nam_dau_tien.pdf