Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa)

Năm 248, Bà Triệu đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại ách đô hộ của nhà

Ngô. Dù chưa giành thắng lợi nhưng cuộc khởi nghĩa đã trở thành biểu tượng cho ý chí, khát

vọng giành độc lập của dân tộc. Bài viết khái quát lại những nét tiêu biểu của cuộc khởi

nghĩa Bà Triệu và những dấu ấn văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa) - nơi diễn ra

những trận chiến oanh liệt, quả cảm của nghĩa quân Bà Triệu.

Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa) trang 1

Trang 1

Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa) trang 2

Trang 2

Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa) trang 3

Trang 3

Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa) trang 4

Trang 4

Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa) trang 5

Trang 5

Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa) trang 6

Trang 6

Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa) trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 5620
Bạn đang xem tài liệu "Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa)

Khởi nghĩa Bà Triệu và những dấu tích văn hóa trên vùng đất Hậu Lộc (Thanh Hóa)
ủa 
sử nhà Ngô7. 
 Đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ ở châu Giao, triều Ngô phải cử viên 
danh tướng Lục Dận làm thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu uý, đem khoảng 8.000 quân cùng 
với lâu thuyền tiến sang Giao Châu đàn áp cuộc khởi nghĩa. Lục Dận đã kết hợp dùng binh 
lực uy hiếp với dùng mưu mô dụ dỗ và của cải để mua chuộc. Sau một thời gian, một số thủ 
lĩnh của Giao Châu đã quy thuận nhà Ngô, nghĩa quân của Bà Triệu bị rơi vào tình trạng cô 
lập, khó khăn trong việc mở rộng địa bàn hoạt động. Tiếp đó, Lục Dận đã huy động lực lượng 
tấn công vào quận Cửu Chân theo hai hướng: một mũi qua cửa biển Thần Phù tiến vào hành 
lang Hoàng Cương - Chính Đại - Bạch Ác đồng thời ngược sông Lèn bao vây nghĩa quân từ 
phía Bắc, một mũi vào cửa Sung (sông Mã) cửa biển Lạch Trường đánh vòng vào Bồ Điền từ 
phía nam8. 
 Trước tình thế đó, Bà Triệu đã chủ động tổ chức lực lượng đón đánh quân xâm lược. 
Tương truyền Bà Triệu đã có đến trên ba mươi trận chạm trán với quân Ngô, nhưng không 
giành được thắng lợi. Tuy thế, những cuộc đụng độ đầu tiên này cũng đã đủ làm cho quân 
Ngô kinh hoàng, khiếp đảm mỗi khi nghe tiếng Bà Triệu. “Hoành qua đương hổ dị, đối diện 
Bà Vương nan” (múa ngang ngọn giáo chống hùm thì dễ mà đối mặt với Vua Bà thì thật khó 
vô cùng), là tâm trạng chung của binh lính Ngô khi ấy. 
 Cũng vẫn theo truyền thuyết, Lục Dận khi đã phát hiện ra người cầm đầu của cuộc khởi 
nghĩa là một phụ nữ trong trắng tuổi mới ngoài đôi mươi, đã sử dụng những biện pháp hèn hạ 
và nhơ bẩn để sát hại Bà. Bà Triệu đã hy sinh anh dũng trên núi Tùng ở Phú Điền, Hậu Lộc, 
Thanh Hoá. 
 Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu thất bại, nhưng những tướng lĩnh của Bà vẫn tiếp tục cầm 
quân chiến đấu. Phong trào đấu tranh chống lại ách đô hộ của nhà Ngô vẫn diễn ra dưới nhiều 
hình thức ở khắp các địa phương khiến cho bọn quan lại đô hộ nhà Ngô đứng ngồi không yên. 
 2. Những dấu tích văn hóa về khởi nghĩa Bà Triệu trên vùng đất Hậu Lộc 
 Hiện nay, ở nhiều nơi trên vùng đất xứ Thanh vẫn còn những dấu tích văn hóa liên 
quan đến Bà Triệu và cuộc khởi nghĩa. Có thể kể đến như khu di tích Nghè Trúc nơi phối 
thờ Bà Triệu thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định - quê hương của Bà, di tích lịch sử Am 
Tiên nằm trên đỉnh núi Nưa thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn - tương truyền là nơi nghĩa 
quân Bà Triệu cất giấu vũ khí, lương thực và rèn luyện binh đao 
 Ở huyện Hậu Lộc, để tưởng nhớ công lao của Bà Triệu và nghĩa quân, từ rất sớm, nhân 
dân đã xây dựng đền Bà Triệu ở trên núi Gai, lăng của Bà ở núi Tùng và đình làng Bà Triệu ở 
làng Phú Điền. 
7 Phan Huy Lê (cb) (2012), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, tr 402 - 403. 
8 Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa Thanh Hóa, Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh và Khu di tích lịch sử kiến 
trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Bà Triệu, Nxb Thanh Hóa, tr 20 - 21. 
 57 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 2.1. Những dấu tích văn hóa vật thể 
 * Đền Bà Triệu 
 Đền Bà Triệu được xây dựng bằng tranh tre dưới chân núi Gai ngay sau khi Bà hy sinh. 
Khoảng 300 năm sau, khi Lý Nam Đế đi đánh giặc Lâm Ấp xâm chiếm bờ cõi phương Nam, 
đi qua đền thờ đã khẩn cầu, mong bà phù hộ.Khi chiến thắng trở về, vua Lý Nam Đế đã dừng 
chân ở đền tạ ơn vong linh của vị Nữ tướng. Để tỏ lòng thành, nhà vua đã cấp kinh phí cho 
dân làng Bồ Điền mở rộng, tu sửa đền thờ thêm đẹp và tôn hiệu Bà là Bậc chính anh hùng tài 
chính nhất phu nhân. Thời Lê Trung Hưng, đền bị hư hỏng, đến thời nhà Nguyễn đền được tu 
sửa lại. Lần gần đây nhất đền được trùng tu, tôn tạo vào năm 20089. 
 Ngôi đền được xây dựng theo kiến trúc nội công ngoại quốc hướng về phía Bắc. Hệ 
thống thờ trong đền được sắp xếp theo quy luật thờ anh hùng dân tộc. Hậu cung là công trình 
có địa thế cao nhất, dựa lưng vững chãi vào núi Gai. Các công trình của đền được quy hoạch 
hài hòa trong vùng cảnh quan của vùng đất cổ Phú Điền, tạo nên quang cảnh linh thiêng và 
tuyệt đẹp. 
 Không gian khu di tích gồm có các hạng mục theo thứ tự từ ngoài vào trong gồm: Nghi 
môn ngoại (Cổng Ngoại), Hồ sen hình chữ nhật, Bình phong, Nghi môn trung (Cổng Trung), 
Sân dưới, Nghi môn nội, Sân trên (hai bên là nhà Tả Hữu Mạc), Tiền đường, Sân thượng, 
Trung đường, Sân thiên tỉnh, Hậu cung. 
 Ngoài ngôi đền chính, còn một số công trình phụ cận có liên quan: 
 * Khu lăng mộ Bà Triệu: cách đền Bà Triệu 500 m về phía Tây là khu lăng mộ Bà 
Triệu. Khu lăng mộ nằm trên đỉnh núi Tùng với đường lên gồm 315 bậc bằng đá tự nhiên. 
Lăng được cấu trúc theo kiểu dáng hình trụ đứng (tứ giác) nhỏ dần về phía đỉnh gồm 2 tầng 
mái. Mộ được xây dựng với cấu trúc vuông bốn mặt và mở cửa hình vòm ra 4 phía. Phần tháp 
chúa có cấu trúc hình trụ vuông bốn mặt làm bằng đá tảng nguyên khối. 
 * Mộ ba anh em họ Lý: Ba người anh em họ Lý là những dũng tướng của Bà Triệu. Sau 
khi chủ tướng tuẫn tiết, ba ông đã bàn nhau cùng hy sinh để tránh rơi vào tay giặc. Tương 
truyền, ba ngôi mộ được mối bao thành khu mộ thiêng. Khu mộ 3 ông nằm sát chân núi 
Tùng, hiện đã được trùng tu, tôn tạo khang trang với cổng mộ được xây dựng theo kiểu tứ trụ 
bằng đá xanh nguyên khối, cũng là cổng vào để lên khu lăng mộ Bà Triệu ở trên núi Tùng. 
Khuôn viên của 3 khu mộ ba ông tướng họ Lý, nằm trong một không gian được xây tường 
bảo vệ với ba ngôi mộ được phân bố thành hàng ngang. 
 * Miếu bàn thề: Tương truyền đây là khu vực ba anh em họ Lý tổ chức làm lễ cáo yết 
trời đất, thề đi theo nghĩa quân của Bà Triệu để đánh đuổi giặc Ngô. Miếu thờ được xây dựng 
theo hình thức lộ thiên, nằm trên cánh đồng Đồng Bảng của làng Phú Điền. 
 * Đền Đệ tứ: Đền tọa lạc hướng Đông gần khu vực núi Eo của làng Phú Điền nên còn 
gọi là Nghè Eo. Căn cứ vào các dấu tích, lối kiến trúc và các bức họa được vẽ trên tường, các 
nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa - kiến trúc cho biết đây là công trình được xây dựng dưới 
thời nhà Nguyễn. Tuy nhiên, một đạo sắc còn lưu tại đền có niên đại vào năm Cảnh Thịnh 
9 Trung tâm Bảo tồn Di sản văn hóa Thanh Hóa, Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh và Khu di tích lịch sử kiến 
trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Bà Triệu, sđd, tr 24. 
58 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
thứ 5 (1797) cho biết dưới thời Tây Sơn việc phong sắc của triều đình phong kiến đã diễn ra, 
do đó, việc xây dựng đền có thể đã được khởi dựng từ thế kỉ XVIII. 
 2.2. Những dấu tích văn hóa phi vật thể 
 * Lễ hội đền Bà Triệu 
 Để tưởng nhớ công lao của Bà Triệu và nghĩa quân, vào tháng 2 âm lịch hàng năm, 
nhân dân khắp nơi trong vùng lại tổ chức lễ hội để ghi nhớ công lao của Bà. Cấp độ lễ hội 
được quy định: 5 năm tổ chức một lần với quy mô cấp tỉnh và vào năm chẵn, còn hàng năm 
lễ hội vẫn diễn ra với quy mô cấp huyện được tổ chức vào chính ngày giỗ của Bà. 
 Lễ hội diễn ra theo quy trình đền - lăng - đình. Tại đền chính tổ chức chủ yếu các tế lễ 
như: rước kiệu, tế quan nữ. Ngoài các nghi thức chính còn có lễ Mộc dục, lễ Phụng Nghinh. 
 Trong lễ hội Bà Triệu rước bóng được đánh giá là nét độc đáo nhất, đồng thời là một nghi 
thức quan trọng. Trên kiệu Vua Bà người dân chuẩn bị một bát hương cùng với một hộp tư 
trang, một đĩa trầu cau têm đẹp. Nhân dân trong làng chọn 8 chàng trai khỏe mạnh để khênh 
kiệu. Các chàng trai đều mặc áo đỏ cộc tay, thắt lưng màu đỏ, chít khăn đỏ, quần trắng và đi 
chân đất. Người chủ tế đi dưới gầm kiệu. Tiếp ngay sau kiệu Bà chính là kiệu song loan, trên 
kiệu có áo chầu và những hộp đựng sắc phong. Kiệu song loan cũng có 8 người khiêng. 
 Trình tự: đi đầu là một hương án cùng 2 người vác lọng che, trên kiệu có bát hương, 
trầu cau, hoa quả. Sau hương án là phường bát âm cử nhạc lưu thủy, có trống, chiêng và 32 
người thực hiện các nhiệm vụ vác gươm, vác bát bửu, dùi đồng. Đoàn người vác cờ hội, kiệu 
song loan cho đến những người đi cùng đoàn đều ăn mặc chỉnh tề. 
 Hành trình: đi từ đền chính đến lăng. Khi đến lăng, kiệu được đặt trên giá đỡ và làm 
nghi thức khấn đức Bà. Đoàn cử hành về đình làng Phú Điền, kiệu, bát hương bóng Bà đặt 
giữa đình và tiếp tục tế lễ một ngày một đêm. Các lễ tế gồm: tế yên vị, tế tam sanh. Sau cùng, 
đoàn rước tế theo lộ trình về đền chính để làm lễ10. 
 Cũng như bất cứ lễ hội nào, ngoài phần lễ có phần hội. Đối với lễ hội Bà Triệu, trong 
phần hội không có trò diễn dân gian. Chỉ có hội trận tại sân đình làng Phú Điền với cảnh 
“Ngô - Triệu giao quân”, mô tả lại trận đánh của nghĩa quân Bà Triệu với quân Ngô giữa trai 
tráng của xóm trên (phía bắc) và xóm dưới (phía nam). Cuộc tập trận diễn ra từ sáng đến trưa, 
rồi tất cả hòa vào nhau để đi rước kiệu Bà. 
 Thêm một tục lệ nữa, trong ngày hôm đó, cả làng đều ăn nguội (ăn thức ăn nấu sẵn từ 
hôm trước), để đến chiều mới nấu nướng linh đình. Các cụ giải thích rằng ra đánh trận là phải 
ăn lương khô, đến khi khải hoàn mới mở tiệc ăn mừng. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, 
trò diễn “Ngô - Triệu giao quân” đã bị xóa bỏ. Một số quy tắc rườm rà của tế lễ được chọn 
lọc, rút ngắn... 
 Ngoài các hoạt động truyền thống vốn có, lễ hội đền Bà Triệu còn có thêm nhiều nội 
dung phong phú như: thi đấu vật, leo dây, thổi cơm thi, đánh cờ tướng, văn nghệ quần chúng, 
thi nấu ăn, thi đấu các môn thể thao (bóng chuyền, bóng đá)... 
10 Lý lịch khu di tích đền Bà Triệu, hồ sơ lưu tại phòng Văn hóa huyện Hậu Lộc. 
 59 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
 * Một số thần tích, truyền thuyết liên quan đến Bà Triệu và cuộc khởi nghĩa 
 Thần tích đang lưu giữ tại đình Phú Điền viết rằng: sau khi giao chiến nhiều trận bất 
phân thắng bại, quân giặc biết Triệu Trinh Nương là người con gái “ái khiết úy ố” (yêu sự 
trong sạch, sợ sự nhơ bẩn) nên liền lập mưu kế cho quân lính khỏa thân giao chiến. Triệu 
Trinh Nương vô cùng xấu hổ phải lui quân về bản doanh trang Bồ Điền và lập đàn cầu đảo. 
Bỗng đâu trời nổi cơn giông gió, mây đen kéo đến, Triệu Trinh Nương liền rời khỏi mình voi 
mà hóa tại vùng đất Hối Sơn vào ngày 22 tháng 2 năm 248. Một lúc sau trời sáng dần, khi đó 
3 ông tướng họ Lý và nhân dân đến xem sự tình, bỗng thấy côn trùng bao thành mộ thiêng. 
Từ đó đã đặt tên là Hối Sơn thần. Sau đó ba ông tướng họ Lý bàn với nhau rằng: Anh em ta 
có tài là do trời phú, nay trời đã không cùng ta để đến nỗi như thế này. Quân không có tướng 
như hổ không đầu, có sống thì biết dựa vào đâu? Sao bằng lập đàn cầu đảo trời đất để cùng 
chết. Vừa cầu đảo xong, bỗng thấy trên trời có đám mây lành giáng xuống đàn cầu đảo, ba 
ông cho đó là chuyện lạ, trong khoảnh khắc tự nhiên ba ông cùng hóa (tức là ngày mồng 6 
tháng 3). 
 Truyền thuyết về chiến thuyền giặc bị vùi xác: Nhân dân địa phương cho biết, trước đây 
có một nhánh của sông Mã chảy từ đầm Hàn về cửa biển Lạch Trường. Đó như là âu thuyền 
tự nhiên do quân của Lục Dận chiếm giữ, thuyền nhiều đến nỗi không ai có thể đếm xuể. Có 
một chàng trai đã lấy trộm ngựa chiến của giặc và chạy về Bồ Điền xin gia nhập nghĩa quân 
Bà Triệu. Trong một trận thủy chiến với giặc trên sông, chàng trai ấy đã dũng cảm hy sinh. 
Quân giặc đang hò reo ăn mừng, thì bỗng trời đất tối mịt - nổi cơn giông gió, tất cả núi đá, 
rừng cây đều ầm ầm đổ xuống lấp cạn dòng sông, hàng ngàn chiến thuyền và xác giặc đã bị 
vùi dưới đáy sông11. 
 Những truyền thuyết trên đã cho thấy tấm lòng yêu mến, ngưỡng mộ của nhân dân với 
Bà Triệu và cuộc khởi nghĩa. 
 3. Giá trị của khởi nghĩa Bà Triệu và khu di tích đền Bà Triệu 
 Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu tuy thất bại, nhưng đã tạo nên mốc son sáng chói trong lịch 
sử chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, ý chí 
hiên ngang, khí phách quật cường của dân tộc ta và người xứ Thanh. 
 Ngày nay, những dấu tích văn hóa vật thể và phi vật thể về cuộc khởi nghĩa Bà Triệu 
trên vùng đất Hậu Lộc thực sự trở thành gạch nối giữa hiện tại và quá khứ. Đó là chứng tích 
về một thời kì hào hùng của ông cha, để con cháu hôm nay và mai sau luôn tự hào. Có thể 
nói, những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của khu di tích Bà Triệu là tài sản văn hóa vô 
giá của nhân dân Thanh Hóa nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. 
 Cũng chính bởi vậy, việc phát huy giá trị của cụm di tích đền Bà Triệu với đền thờ Bà, 
khu lăng mộ Bà Triệu và ba anh em họ Lý, đình làng Phú Điền, đền Đệ Tứ, miếu Bàn thề có 
vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng 
cây”, truyền thống đấu tranh cách mạng, những giá trị nhân văn sâu sắc... cho nhân dân. Vấn 
đề quan trọng đặt ra cho các cấp chính quyền và cộng đồng là cần phát huy hơn nữa giá trị 
11 Trung tâm Bảo tồn Di sản văn hóa Thanh Hóa, Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh và Khu di tích lịch sử kiến 
trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Bà Triệu, sđd, tr 22 - 23. 
60 
 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
của cụm di tích trong khai thác du lịch, đặc biệt là du lịch tâm linh. Trải qua thời gian, đặc 
biệt từ năm 2005, nhà nước và nhân dân đã đầu tư nhiều tâm sức và tiền của để phục dựng, tu 
bổ cụm di tích và lễ hội đền bà Triệu, xứng đáng với vị thế của khu di tích và đáp ứng nguyện 
vọng của người dân. Năm 2014, Thủ tướng chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích quốc gia 
đặc biệt cho khu di tích Bà Triệu. 
 Tài liệu tham khảo chính 
 [1]. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Bản in nội các quan bản, Nxb Khoa học Xã hội, 2004. 
 [2]. Trần Trọng Kim (1999),Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 
 [3]. Huyện ủy Yên Định (2010), Địa chí huyện Yên Định, Nxb Khoa học Xã hội. 
 [4]. Địa chí Thanh Hoá, tập 1, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội 2000. 
 [5]. Phan Huy Lê (cb) (2012), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục. 
 [6]. Trung tâm Bảo tồn Di sản văn hóa Thanh Hóa, Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh 
và Khu di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Bà Triệu, Nxb Thanh Hóa. 
 [7]. Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (2000), Di tích và Danh thắng Thanh Hóa, tập 
1, Nxb Thanh Hóa. 
 [8]. Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (2002), Di tích và Danh thắng Thanh Hóa, tập 
2, Nxb Thanh Hóa. 
 [9]. Báo cáo hoạt động của khu di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Bà 
Triệu từ năm 2008 đến năm 2018, tài liệu lưu tại Trung tâm Bảo tồn Di sản văn hóa Thanh Hóa. 
 [10]. Bảo tàng Thanh Hóa, Lý lịch di tích đình làng Phú Điền xã Triệu Lộc, huyện Hậu 
Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa, tháng 10/1995. 
 [11]. Ban Quản lý di tích và Danh thắng Thanh Hóa (2009), Lễ hội xứ Thanh, Nxb Văn 
hóa Dân tộc, Hà Nội. 
 LADY TRIEU’S UPRISING AND CULTURAL IMPRINTS 
 IN THANH HOA 
 Nguyen Thi Thanh Nga, Ph.D student 
 Abstract: In 248, Ba Trieu led the uprising against the domination of Chinese Ngo 
invaders. Although the uprising had not won yet, the uprising became a symbol of the nation's 
will and desire for independence. The article summarizes the typical features of Lady Trieu’s 
uprising and the cultural imprints in Hau Loc (Thanh Hoa) - where the fierce and brave 
battles of Lady Trieu and her insurgents took place. 
 Keywords: Lady Trieu; uprising; Lady Trieu temple; 
 Người phản biện: TS. Lê Thị Thảo (ngày nhận bài 07/6/2019; ngày gửi phản biện 
10/6/2019; ngày duyệt đăng 30/9/2019). 
 61 

File đính kèm:

  • pdfkhoi_nghia_ba_trieu_va_nhung_dau_tich_van_hoa_tren_vung_dat.pdf