Khai thác di sản địa chất hệ thống hang động núi lửa Krông Nô, tỉnh Đắk Nông phục vụ phát triển du lịch
Hệ thống hang động núi lửa Krông Nô là phần độc đáo nhất của công viên địa chất toàn cầu
UNESCO Đắk Nông với khoảng 50 hang động. Tại nhiều hang động núi lửa, các nhà khoa học đã
ghi nhận, khám phá nhiều giá trị về di sản địa chất, đa dạng sinh học và dấu tích hoạt động của người
tiền sử. Khai thác giá trị của hệ thống hang động Krông Nô cho phát triển du lịch sẽ đồng thời đạt
được hai mục đích, vừa phát triển kinh tế nâng cao thu nhập người dân, vừa bảo tồn được các di sản
tự nhiên và văn hóa. Trên cơ sở phân tích các giá trị di sản địa chất và một số điều kiện thúc đẩy phát
triển du lịch trên cơ sở khai thác hang động núi lửa, bài báo đã gợi ý một số giải pháp: quy hoạch hệ
thống hang động núi lửa và tài nguyên du lịch khác; đa dạng hóa, phát triển các loại hình du lịch theo
đặc điểm tính chất của từng loại hang; hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác tài nguyên di sản
địa chất cho phát triển du lịch; đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khai thác di sản địa chất hệ thống hang động núi lửa Krông Nô, tỉnh Đắk Nông phục vụ phát triển du lịch
c họ Dẻ, họ Vang, họ Trinh nữ, họ Dầu, họ Dâu tằm, họ Đậu... Ngoài ra còn có các loài Dương xỉ, Rêu và Địa y ở khu vực cửa hang động. Phần thứ hai không có ánh sáng mặt trời chỉ có rêu mốc, địa y. Đa dạng sinh học ở đây chủ yếu là đa dạng động vật không xương sống và rêu tảo (địa y). Khu vực tối hoàn toàn trong hang động núi lửa thường có sự hiện diện hiếm hoi của Nấm hoại sinh và dễ bắt gặp Nấm phát quang. Về đa dạng động vật: Hang động là nơi cư trú và quần tụ của nhiều loài động vật hoang dã, từ các loài thú đến côn trùng. Trong hang, động vật không xương sống chiếm tới 96% còn lại là một số loài dơi, rắn và một số loài sinh vật khác chỉ trú ngụ tạm thời trong hang. Kết quả nghiên cứu khu hệ động thực vật không xương sống trong hang động núi lửa khu vực Krông Nô đã bắt gặp 240 cá thể bao gồm 54 họ thuộc 7 lớp, 21 bộ [2]. Có thể khẳng định rằng, hang động núi lửa Krông Nô chứa đựng giá trị đa dạng sinh học ở mức cao, đã định danh được 69 loài sinh vật trong đó có tới 30 loài mới và đặc hữu [2]. 3.2. Các điều kiện thúc đẩy du lịch dựa vào khai thác giá trị hang động núi lửa Krông Nô Bên cạnh di sản địa chất đặc sắc thuộc hệ thống hang động núi lửa Krông Nô thì Đắk Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 44 Nông còn được đánh giá là một tỉnh có tài nguyên du lịch tự nhiên hết sức phong phú và đa dạng với cảnh núi non, hồ, thác nước hùng vĩ, thơ mộng bên cạnh hệ động thực vật phong phú [5]. Đắk Nông có hệ thống sông, hồ phân bố khắp toàn tỉnh với địa hình chia cắt mạnh tạo thành nhiều dòng thác đẹp và hùng vĩ bậc nhất Tây Nguyên như thác Len Gun (thác Bảy tầng), thác Liêng Nung, thác Gia Long, thác Đray Sáp, thác Trinh Nữ, thác Đắk Plao.... Bên cạnh đó, khu vực còn có các khu bảo tồn thiên nhiên chứa đựng nhiều giá trị về mặt sinh thái. Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung giàu tiềm năng kinh tế du lịch với hệ thực vật phong phú gồm 300 loài, trong đó có các loài vùng cổ nhiệt đới và nhiều loài đặc hữu có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và thế giới. Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng là vùng giao thoa địa lý và sinh học giữa khu vực Nam Tây Nguyên và khu vực miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong 3 khu bảo vệ của Việt Nam có hươu vàng - loài phụ đặc hữu của Đông Dương và Thái Lan, đồng thời còn là một trong những vùng chim đặc hữu ở Việt Nam. Ngoài ra, Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng còn có vị trí địa lý đặc biệt nằm ở khu vực thượng nguồn sông Đồng Nai, có các dự án thủy điện Đồng Nai 3, 4 đang hoạt động đã tạo ra những hồ nước rộng khoảng 3.632 ha mặt nước và hình thành 47 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau tạo cảnh quan đẹp, được ví như “vịnh Hạ Long của mảnh đất Tây Nguyên”. Bên cạnh đó, khu vực nghiên cứu còn có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn đặc sắc với giá trị văn hóa của tộc người Tây Nguyên và dân tộc tại chỗ Mnông, Mạ, Ê-đê... 10 di tích lịch sử cấp quốc gia gắn liền với dân tộc tại chỗ và hệ thống chùa, thiền viện (nổi bật là chùa Pháp Hoa, thiền viện Trúc Lâm Đạo Nguyên) và các lễ hội góp phần tạo nên đa dạng các loại hình du lịch. Đắk Nông có 3 tuyến quốc lộ chạy qua là QL14, 14C và QL 28 với tổng chiều dài 311 km; 6 tuyến tỉnh lộ có tổng chiều dài 318 km với các hệ thống đường bộ, đường thủy liên huyện liên xã cơ bản đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch. Các cơ sở lưu trú phục vụ du khách trong tỉnh cũng tăng lên đến 204 cơ sở với khoảng 2.139 phòng. Tốc độ tăng trưởng bình quân khách đạt 9,15%/năm; doanh thu du lịch tăng trưởng bình quân đạt 10,4%/năm [8]. Đây là những điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch tỉnh Đắk Nông nói chung và du lịch địa chất của tỉnh nói riêng. 3.3. Hiện trạng và những hạn chế trong khai thác hang động địa chất Krông Nô Du lịch tỉnh Đắk Nông mới ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, nhưng cũng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Số lượng khách du lịch và doanh thu từ hoạt động du lịch có dấu hiệu tăng qua các năm, thể hiện ở bảng sau. Bảng 1. Tình hình phát triển du lịch Đắk Nông giai đoạn 2015-2019 Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2015 2016 2017 2018 2019 Doanh thu của các cơ sở lưu trú Triệu đồng 85.161 99.300 102.508 115.410 125.789 Doanh thu của các cơ sở lữ hành 931 597 613 704 749 Khách du lịch nghỉ qua đêm Nghìn lượt người 563,5 546,2 452,4 447,3 486,3 Khách du lịch trong ngày 113 271 371,7 465,2 509,4 Số lượt khách do cơ sở lưu trú phục vụ 686,4 817,3 824,2 912,4 995,7 Số lượt khách do các cơ sở lữ hành phục vụ 0,4 0,3 0,4 0,4 0,6 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đắk Nông, 2019 Phạm Thị Trầm - Khai thác di sản địa chất hệ thống hang động núi lửa 45 Mặc dù lượng khách tăng lên theo thời gian nhưng lượng khách du lịch nghỉ lại qua đêm còn thấp, có dấu hiệu giảm, chỉ có khách du lịch trong ngày tăng dần đều qua các năm. Hơn nữa, doanh thu từ các cơ sở lữ hành và số lượt khách do các cơ sở lữ hành phục vụ còn rất thấp thể hiện dịch vụ lữ hành của tỉnh còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch của tỉnh. Các doanh nghiệp lữ hành hiện hoạt động với quy mô nhỏ lẻ, sản phẩm chủ yếu là các tour ngắn ngày tại địa phương, hướng dẫn du lịch chưa chuyên nghiệp, nhất là chưa có khả năng quảng bá được đặc điểm nổi bật về giá trị tài nguyên du lịch cho du khách. Cơ sở dịch vụ ăn uống, ẩm thực chỉ tập trung ở trung tâm của tỉnh và huyện, còn hạn chế ở các khu du lịch. Đặc biệt, tỉnh Đắk Nông chưa có quy hoạch chi tiết khu vực công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông nói chung cũng như khu vực hệ thống hang động núi lửa Krông Nô nói riêng cho mục đích phát triển du lịch. Các khu, điểm du lịch hiện mới được khai thác ban đầu, đa số mới chỉ bán vé tham quan chứ chưa có các dịch vụ chiều sâu khác nên thời gian du khách lưu lại các khu, điểm thường rất ngắn, hiệu quả kinh doanh chưa cao. Khu vực hang động núi lửa hiện vẫn đang được khám phá, nghiên cứu chứ chưa được đầu tư khai thác để phát triển các loại hình du lịch đặc thù. Ngoài ra hệ thống giao thông đường bộ, nhất là hệ thống đường nội tỉnh dẫn tới các khu bảo tồn, khu hang động núi lửa còn khó khăn khiến cho khách du lịch khó có thể tiếp cận được với các tài nguyên du lịch đặc sắc của tỉnh một cách thuận lợi. Đó là những hạn chế cơ bản nhất trong phát triển du lịch tỉnh Đắk Nông nói chung, du lịch công viên địa chất toàn cầu Đắk Nông và du lịch địa chất hang động núi lửa Krông Nô nói riêng. 3.4. Giải pháp thúc đẩy phát triển du lịch bền vững trên cơ sở khai thác di sản địa chất * Quy hoạch hệ thống hang động núi lửa và tài nguyên du lịch lân cận để phát triển du lịch: Đặc điểm độc đáo của di sản địa chất cùng với các đặc điểm về đa dạng sinh học, các danh lam thắng cảnh gắn với đặc điểm phong phú về văn hóa là nguồn tài nguyên du lịch đặc sắc của tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, cần thiết phải có quy hoạch, kế hoạch chi tiết khai thác hệ thống hang động núi lửa Krông Nô phục vụ phát triển du lịch. Trong quá trình xây dựng quy hoạch/kế hoạch khai thác tài nguyên địa chất, phải kết hợp với việc quy hoạch và bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn các tài nguyên du lịch nhân văn. Bên cạnh đó, cần lập quy hoạch/kế hoạch phát triển hạ tầng giao thông, cơ sở lưu trú và các cơ sở dịch vụ khác. - Du lịch khoa học cần phát triển đối với những hang có đặc điểm bảo tồn các tư liệu quan trọng, có ý nghĩa to lớn cho nghiên cứu khoa học, có đặc điểm nhạy cảm, dễ biến đổi và dễ bị phá hủy bởi sự hiện diện của con người. Đối tượng hướng tới là các nhà nghiên cứu khoa học, nghiên cứu sinh, sinh viên chuyên ngành về địa chất và sinh học như khu vực núi lửa Chư B’Luk có hang C7 và hang P20. - Du lịch tâm linh kết hợp tham quan, khám phá và nghiên cứu khoa học cần phát triển đối với những hang có bảo tồn các tư liệu/di tích của người tiền sử (như các di tích: cư trú, xưởng, mộ táng, trại săn tạm thời...). Nên có các trưng bày tại chỗ các di tích đã khai quật được. Theo kết quả nghiên cứu đã thực hiện, hệ thống hang núi lửa Chư B’Luk có tới 12 hang chứa di tích tiền sử [2], nhưng hang có di cốt người tiền sử chỉ mới được phát hiện tại hang C6.1. - Du lịch mạo hiểm cần được khai thác ở những hang có cửa vào dốc đứng, nguy hiểm mà Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 46 không thể ra vào một cách tự nhiên, phải dùng thiết bị chuyên dụng như dây leo chuyên dụng, thang... Đối tượng khai thác là các khách du lịch muốn khám phá mạo hiểm, ưa thích cảm giác mạnh và có kỹ năng leo trèo, dũng cảm. Hang P8, P20 với miệng sâu thẳng đứng khoảng 25 - 26 m có thể khai thác loại hình du lịch này. * Hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác tài nguyên di sản địa chất cho phát triển du lịch: Đối với hệ thống hang động núi lửa Krông Nô hiện còn đang ở trạng thái nguyên sơ, ít chịu tác động của các quá trình ngoại sinh cũng như chưa được khai thác để phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, cơ sở hạ tầng khu vực này còn chưa được quan tâm đầu tư phát triển. Để khai thác có hiệu quả tài nguyên này cho mục đích phát triển du lịch, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ của khu vực. Đặc biệt, bên trong hệ thống hang động núi lửa Krông Nô cần thực hiện việc xử lý chống sập lở trần hang, đảm bảo độ an toàn tuyệt đối cho khách. Bên cạnh đó, cần thiết kế, trang trí nội thất hang nhằm làm nổi bật các đặc điểm độc đáo trong cấu trúc, kiến tạo hang. Cần có các chỉ dẫn và thông tin giới thiệu các đặc điểm về quá trình hình thành, giá trị khoa học và giá trị thực tiễn của mỗi hang trong hệ thống. * Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch, đặc biệt là các hướng dẫn viên chuyên nghiệp, có kiến thức về hang động nói chung và hang động núi lửa nói riêng: Đối với hướng dẫn viên du lịch tại các khu vực hang động, ngoài việc trau dồi, học hỏi về kiến thức chuyên môn đặc thù để cung cấp các thông tin và giá trị của di sản địa chất cho du khách, cần phải rèn luyện về thể chất, nâng cao các kỹ năng khác (leo trèo, sơ cứu khi có người gặp nạn, xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình khám phá hang động...). * Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng về di sản địa chất: cần tuyên truyền cho người dân biết về giá trị và vai trò của di sản địa chất. Di sản địa chất là tài nguyên không tái tạo được, bảo tồn di sản địa chất để khai thác các giá trị di sản chứ không phải khai thác thực thể di sản, khai thác để phát huy các giá trị di sản là để phát triển bền vững kinh tế xã hội nhằm tạo nguồn lực quay trở lại làm công tác bảo tồn được tốt hơn. Hình thức tuyên truyền có thể đa dạng, thực hiện trên các phương tiện thông tin truyền thông, các trang mạng xã hội trong và ngoài nước với nhiều thứ tiếng. Bên cạnh đó, có thể truyền thông bằng việc chỉ dẫn và giới thiệu giá trị của di sản địa chất tại mỗi hang để phổ biến các giá trị của hệ thống hang động núi lửa, đồng thời nâng cao nhận thức cho người dân về việc phải bảo vệ các di sản địa chất độc đáo này. 4. Kết luận Hệ thống hang động núi lửa Krông Nô là hang động núi lửa thực thụ được tìm thấy ở khu vực Tây Nguyên với các giá trị đặc sắc về di sản địa chất, đa dạng sinh học và di tích lịch sử văn hóa. Từng chi tiết về di sản địa chất trong hang động núi lửa sẽ được tích hợp để giới thiệu cho du khách đến tham quan thưởng ngoạn, sẽ là những nguồn thông tin khoa học rất bổ ích và lý thú, góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo tồn di sản địa chất, khai thác giá trị di sản địa chất, thu hút du khách, phát triển du lịch. Để khai thác, phát triển du lịch trên cơ sở các giá trị di sản địa chất độc đáo này, cần thiết phải có kế hoạch chi tiết về việc phát huy các giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn khu vực nghiên cứu, kết nối và khai thác với các dạng tài nguyên khác trong tỉnh. Đặc biệt, cần có quy hoạch chi tiết cho việc phát triển các loại hình du lịch gắn với đặc điểm của từng hang động Phạm Thị Trầm - Khai thác di sản địa chất hệ thống hang động núi lửa 47 trong hệ thống nhằm đa dạng hóa các loại hình du lịch cũng như phát huy hết các giá trị địa chất trong hệ thống hang động. Cần đa dạng hóa, kết hợp các loại hình du lịch như: du lịch địa chất kết hợp du lịch mạo hiểm, du lịch khám phá, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng... Bên cạnh đó, cần phải thực hiện các giải pháp về tuyên truyền nâng cao nhận thức về việc bảo tồn các di sản địa chất cũng như quảng bá rộng rãi đặc điểm và vai trò của hệ thống hang động núi lửa trong công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông và các danh thắng khu vực Tây Nguyên. Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác các đặc điểm nổi trội của hệ thống hang động núi lửa không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương mà còn có vai trò quan trọng trong bảo tồn di sản địa chất đa dạng của khu vực Tây Nguyên nói riêng, cả nước nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. La Thế Phúc (2017), Báo cáo đề tài KHCN đột xuất: “Nghiên cứu, điều tra thăm dò (thám sát) khảo cổ hang dộng núi lửa thuộc huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông”, 1/2017-12/2017, thuộc dự án: Xây dựng bộ sưu tập mẫu vật Quốc gia về thiên nhiên Việt Nam. 2. La Văn Phúc (2021), Báo cáo tổng hợp đề tài mã số TN17/06: “Nghiên cứu giá trị di sản hang động, đề xuất xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ ở Tây Nguyên; lấy thí dụ hang động núi lửa ở Krông Nô, tỉnh Đắk Nông”, Chương trình Tây Nguyên giai đoạn 2016-2020, Hà Nội, 2021. 3. La Thế Phúc, Hiroshi Tachihara, Tsutomu Honda, Lương Thị Tuất (2015), Phát hiện hang động núi lửa ở Việt Nam- Di sản địa chất độc đáo và những kỷ lục, Tạp chí Di sản Văn hóa số 4 (53)-2015; Cục Di sản Văn hóa, Hà Nội. 4. Nguyễn Khắc Sử (2019), Khảo cổ hang động núi lửa: Một loại hình di sản độc đáo ở Việt Nam (trường hợp hang C6- 1 Krông Nô), Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 61(10), Tháng 10/2019 5. Trường Đại học Đà Lạt (2017), Báo cáo khoa học: Đánh giá tiềm năng và nghiên cứu phát triển mô hình du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng tại Đắk Nông, Chủ nhiệm đề tài Trương Thị Lan Hương, Đắk Nông, 2017. 6. UNESCO (2017), Global Geoparks Network (Guidelines and Criteria for National Geoparks seeking UNESCO’s assistance to join the Global Geopark Network. 7. Wolfgang Eder (2004), The Global UNESCO Network of Geoparks. Proc. 1st Intern. Conf. On Geoparks, pp.1-3. Beijing, China. 8. https://thanhnien.vn/ban-can-biet/dak-nong-huong-toi-phat-trien-du-lich-ben-vung-1138118.html 9. https://vnexpress.net/hang-dong-nui-lua-dai-nhat-dong-nam-a-vua-phat-hien-o-viet-nam-3125485.html Thông tin tác giả: Phạm Thị Trầm, Viện Địa lí nhân văn - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Số 1, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội ĐT: 0984 845 279; Email: trampham.iesd@gmail.com Nhật ký tòa soạn: Ngày nhận bài: 10/02/2021 Biên tập: 03/2021
File đính kèm:
- khai_thac_di_san_dia_chat_he_thong_hang_dong_nui_lua_krong_n.pdf