Khai thác các giá trị văn hóa sông nước trong phát triển du lịch nông nghiệp ở Đồng bằng bằng sông Cửu Long
Du lịch nông nghiệp (DLNN) là loại hình du lịch đang phát triển ở các quốc gia có lợi thế về nông
nghiệp. Việc phát triển du lịch nông nghiệp đem lại nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế và góp phần
nâng cao đời sống xã hội của cư dân. Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng châu thổ rộng lớn
với hàng nghìn kênh rạch chằng chịt, đươc bồi đắp bởi phù sa từ dòng Mekong, thích hợp trồng
cây lúa nước và cây ăn quả. Nơi đây là vựa lúa lớn nhất và quan trọng của Việt Nam. Đồng bằng
sông Cửu Long còn là vùng văn hóa giàu bản sắc. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân
tích các giá trị văn hóa sông nước ở Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm: ẩm thực, cảnh quan
sông nước, văn hóa sản xuất nông nghiệp, văn hóa làng nghề, chợ nổi, lễ hội, nghệ thuật truyền
thống, trò chơi dân gian, Nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu, tổng hợp, phân
tích và đánh giá thông tin. Nguồn dữ liệu được thu thập từ sách, bài nghiên cứu học thuật trên
tạp chí chuyên ngành và kết hợp khảo sát điền dã. Kết quả nghiên cứu cho thấy Đồng bằng sông
Cửu Long với những thế mạnh và đặc trưng riêng, là một trong những nơi phát triển du lịch nông
nghiệp của cả nước. Trong đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sông nước có ý nghĩa
đặc biệt trong xu thế hội nhập và phát triển du lịch hiện nay
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khai thác các giá trị văn hóa sông nước trong phát triển du lịch nông nghiệp ở Đồng bằng bằng sông Cửu Long
HIỆP NHẰMBẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA SÔNGNƯỚCĐBSCL Khai thác theo hướng bền vững, bảo vệmôi trường Theo chu kỳ hàng năm, mùa lũ về sẽ mang theo lượng phù sa màu mỡ từ thượng nguồn sông Mekong bồi đắp cho đất đai, đồng ruộng, mang theo một lượng lớn cá, tôm, để nghề đánh bắt theo mùa này cũng phát triển. Du lịch trên sông nước vào mùa nước nổi cũng từ đó được hình thành. Tuy nhiên, từ năm 2015, ĐBSCL không còn lũ mang phù sa bồi đắp nữa mà phải đối diện với hiện tượng xâm nhậpmặn của nước biển, có nơi vào sâu đến 60 km, gây tác động lớn đến môi trường18. Đến nay, những tháng đầu năm 2020, các kênh truyền thông liên tục đưa tin về tình hình hạn mặn, thiếu nước ngọt đang diễn ra trầm trọng ở các tỉnh ĐBSCL. Đó chính là những tác độngmạnhmẽ của biến đổi khí hậu, sự khai thác tài nguyên nước không kiểm soát ở thượng nguồn sông Mekong đã ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và thiệt hại kinh tế nghiêm trọng ở hạ lưu ĐBSCL. Như thế, sông nước được xem là tài nguyên tự nhiên quan trọng đang bị ảnh hưởng trực tiếp, liên tục, sẽ dẫn đến loại hình DLNN ở ĐBSCL giảm sức hút, đe dọa trực tiếp đến mức độ an toàn của cộng đồng địa phương và cả du khách. ĐBSCL nằm trong vùng bị ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng nhất vì thế phát triển bền vững du lịch nói riêng và phát triển bền vững quốc gia nói chung cần có những giải phápmang tính vĩ mô, thiết thực, kịp thời và nhanh chóng. Một số giải pháp trong khả năng ngành du lịch làm được: một là, phát triển du lịch xanh, bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên, giữ gìn văn hóa bản địa đối với người dân địa phương; hai là,mở rộng và hoàn thiện các tuyến đường sông, biển, trong đó cần lưu ý tác động đến sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp; ba là, bảo tồn bản sắc các tộc người; tôn vinh nét đặc sắc, độc đáo và phát huy được tính giao thoa, cấu kết của các cộng đồng đang sinh sống trong vùng. Các địa phương, các hãng lữ hành có thể tổ chức các tour du lịch tìm hiểu và chung tay bảo vệ cảnh quan thiên nhiên sông nước; các chuyến đi du lịch kết hợp hoạt động bảo tồn, tham gia hoạt động bảo vệ đa dạng sinh học, tài nguyên nước; tour du lịch không rác thải nhựa, hoặc lựa chọn các phương tiện xuồng, ghe, đi bộ du lịch để thay thế cho các phương tiện có khí thải CO2. Khai thác theo hướng liên kết, hợp tác khu vực Hướng đến việc khai thác có hiệu quả tài nguyên DLNN, các cấp quản lý cần liên kết và chia sẻ lợi ích với các doanh nghiệp du lịch trong nước và quốc tế. Các tổ chức, công ty du lịch cầnmở rộng hợp tác trong nước và quốc tế trong việ nối tour, tuyến du lịch; song song với việc hợp tác đào tạo nguồn nhân lực thông qua các khóa tập huấn, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu. ĐBSCL cần có sự chủ động phối hợp, liên kết hiệu quả trong việc khai thác hợp lí tài nguyên, có khai thác đồng thời có bảo tồn, giữ gìn. Đặc biệt là hợp tác liên vùng, liên biên giới giữa các tỉnh ĐBSCL với các tỉnh, các quốc gia có sông Mekong chảy qua để hoàn thiện chính sách quy hoạch, xây dựng tiêu chí kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước. Các cấp chính quyền, ngành du lịch cần có sự hợp tác, liên kết với người dân địa phương trong việc định vị sản phẩm du lịch thông qua các buổi hội thảo, tọa đàm, giao lưu định kỳ; trao đổi kinh nghiệm kinh doanh du lịch homestay, trang trại, làng du lịch; đồng thời chia sẻ các giải pháp tạo ra sản phẩm, dịch vụ du lịch độc đáo nhằm đáp ứng nhu cầu của từng nhóm khách du lịch trong nước và quốc tế. Khai thác theo hướng chuyênmôn hóa, kết hợp xu hướng hiện đại hóa Hiện nay, vấn đề đặt ra trong phát triển loại hình DLNNđó là tính đơnđiệu, trùng lặp của các sảnphẩm du lịch. Motip quen thuộc của các tour du lịch thường là đi xuồng vào các kênh rạch nhỏ, tham quan vườn trái cây, lò kẹo dừa, lò bánh tráng, đi xem chợ nổi, ăn trái cây, nghe đờn ca tài tử. Vì vậy, cần phải ưu tiên phát triển các sản phẩm, mô hình du lịch đặc thù trên sông nước trong vùng ĐBSCL theo hướng chuyên môn, phù hợp với điều kiện từng địa phương. Các cấp quản lý cần hỗ trợ, tư vấn trong việc tổ chức các hoạt động DLNN thông qua các sự kiện, triển lãm, lễ hội, kích cầu du lịch ở khu vực ĐBSCL. Chính phủ, ngân hàng hỗ trợ vay vốn, cho vay không lãi suất đối với các gia đình, các cá nhân có phương án kinh doanh DLNN, homestay ở địa phương, các vùng phù hợp, Các sản phẩmdu lịch ởmột số quốc gia trong khu vực đang hướng đến lợi thế so sánh như: Malaysia – du lịch nghỉ dưỡng, du lịch chữa bệnh, du lịch giáo dục 915 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):908-918 và du lịch MICE; Singapore – du lịch MICE, du lịch kết hợp tham gia sự kiện; Thái Lan – du lịch văn hóa; Indonesia – du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng19. Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế tạo ra sự bùng nổ về số lượng người giàu, trung lưu trong xã hội đã làm thay đổi xu hướng tiêu dùng sản phẩm du lịch của thế giới. Đặc biệt, sự bùng nổ củamạng xã hội và các ứng dụng trên điện thoại di động tác động rất lớn đến việc lựa chọn điểm đến, nơi lưu trú, địa điểm ăn uống của du khách. Vì vậy, ĐBSCL cần phát huy tối đa các lợi thế tiềm năng về tài nguyên tự nhiên và văn hóa; hài hòa trong xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch; phát huy tính trải nghiệm, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các thị trường khách du lịch trong từng loại hình sản phẩm; gia tăng tính hấp dẫn và tính bền vững của sản phẩm du lịch; phát triển các sản phẩm du lịch thông minh đảm bảo tính cạnh tranh quốc tế và khu vực. Ví dụ, du lịch ẩm thực hiện đang là một xu hướng lớn trên thế giới. Thưởng thức ẩm thực là sở thích của hàng triệu người, nó ngày càng chiếmvị trí quan trọng trong chuyến du lịch và đã trở thànhmột trong những lý do chính khi du khách lựa chọn điểm đến. ĐBSCL có bản sắc ẩm thực phong phú, khác biệt ở từng địa phương chắc chắn sẽ trở thành yếu tố tạo sức cạnh tranh cho sản phẩm du lịch. Với việc trải nghiệm đánh bắt thủy hải sản, thu hoạch rau củ quả, rồi trực tiếp chế biến các món ăn, đồ uống, du khách sẽ được hòa mình và cảm nhận giá trị truyền thống địa phươngmột cách chân thực nhất. Mô hình du lịch “từ ruộng vườn đến bàn ăn” sẽ mở ra những cơ hội lớn để thúc đẩy kinh tế địa phương, đóng góp đáng kể vào giá trị DLNN. Sản phẩm du lịch là yếu tố cốt lõi xây dựng thương hiệu du lịch vùng và địa phương. ĐBSCL có những yếu tố “mở” và “động” hoàn toàn có thể phát triển DLNNmột cách hiện đại, đẳng cấp. KẾT LUẬN Đồng bằng sông Cửu Long có những lợi thế về điều kiện tự nhiên, văn hóa đặc sắc cùng với đời sống thuần nông đã góp phần hình thành nên những giá trị văn hóa sông nước rất độc đáo, phong phúmà không phải nơi nào cũng có được. Đây chính là tiềm năng to lớn để phát triển DLNN. Theo “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” của Thủ tướng chính phủ, ban hành ngày 18-11-2016 với một số quan điểm: “Phát triển các sản phẩm du lịch mang tính cạnh tranh góp phần khẳng định thương hiệu du lịch của Vùng, trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên và đặc trưng văn hóa của Vùng; Phát triển du lịch thích ứng với các diễn biến của tình trạng biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, mực nước biển dâng và các biến động bất thường về thủy văn sông Mekong”. Từ đó, Chính phủ đặt ra mục tiêu phát triển của vùng đó là: “Phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; khẳng định vị trí quan trọng của Vùng đối với du lịch Việt Nam. Từng bước nâng cao vị trí, vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội của Vùng, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống người dân, góp phần quảng bá hình ảnh vùng đồng bằng sông Cửu Long với cả nước và quốc tế.”20. Vì vậy, phát triển du lịch gắn kết với nông nghiệp là vấn đề mang tính khoa học, thực tiễn cao, phù hợp với chủ trương chiến lược phát triển bền vững vùng ĐBSCL. Chính quyền và các cấp, ngành du lịch ở ĐBSCL cần nâng cao nhận thức, tạo điều kiện cho nông dân làm du lịch; có chính sách khuyến khích, nhân rộng các mô hình mới, những cách làm hay trong nông nghiệp, hình thành ý thức làm du lịch từ trong nông nghiệp. Song song đó, các tỉnh, thành ĐBSCL cần có kế hoạch giới thiệu quảng bá các sản phẩm nông nghiệp chủ lực; bảo tồn, tôn vinh các giá trị văn hóa và xây dựng thương hiệu DLNN địa phương. DLNN được mở rộng là động lực thúc đẩy kinh tế ĐBSCL phát triển; ổn định đời sống, nâng cao thu nhập cho người dân; góp phần xây dựng thành công nông thôn mới; cũng như lan tỏa các giá trị văn hóa sông nước ĐBSCL đến với cộng đồng và thế giới. LỜI CẢMƠN Đây là sản phẩm của đề tài cấp Nhà nước “Phát triển chuỗi giá trị du lịch nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mới”. Mã số: KX.01.52/16- 20 DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long DLNN: Du lịch nông nghiệp ASEAN: Association of Southeast Asian Nations MICE: Meeting Incentive Conference Event XUNGĐỘT LỢI ÍCH Tác giả không có xung đột về lợi ích với bất cứ ai liên quan đến việc công bố bài viết này. ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ Bài viết tập trung phân tích các giá trị văn hóa sông nước ở Đồng bằng sông Cửu Long dựa trên phương pháp thu thập dữ liệu, tổng hợp, phân tích và đánh giá thông tin. Kết quả cho thấy, Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều lợi thế về tự nhiên, văn hóa, nông nghiệp cho sự phát triển du lịch nông nghiệp. Trong 916 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):908-918 đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sông nước có ý nghĩa đặc biệt trong xu thế hội nhập và phát triển du lịch hiện nay. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Hilchey D. Agritourism in New York State. Farming Alterna- tives Program. Department of Rural Sociology. Ithaca, New York: Cornell University. 1993;. 2. Lobo R, Goldman GE, Jolly DA, Wallace BD, Schrader WL, Parker SA. Agricultural tourism benefits in San Diego County. CaliforniaAgriculture. 1999;53(6):20–24. Available from: https: //doi.org/10.3733/ca.v053n06p20. 3. Tew C. Importance of Agritourism for agripreneur goal accomplishment. Thesis of Faculty of the Gradu- ate School University of Missouri. 2010;Available from: https://mospace.umsystem.edu/xmlui/bitstream/handle/ 10355/8110/research.pdf?sequence=3&isAllowed=y. 4. HươngBTL. Du lịch nôngnghiệp và du lịch nông thôn. Nội san Nghiên cứu khoa học. Trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông nghiệp 2. 2010;1:51–53. 5. Tuấn DT, Hoản NX. Đa dạng hóa hình thức du lịch nông thôn. Hội thảo quốc tế Phát triển du lịch nôngnghiệp và du lịch đón tiếp tại nông hộ: thể chế chính sách và bài học kinh nghiệm, Bắc Cạn. 2012;. 6. Hoàng NH. Hợp tác xuyên biên giới của vùng Tây Nam bộ. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 2018;. 7. Bình NT. Nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng, cơ hội và thách thức trong bối cảnh hội nhập. Hà Nội: Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. 2015;. 8. Sử LQ. Những khía cạnh kinh tế của văn minh kênh rạch Nam Bộ. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 1999;. 9. Hiếu NH. Sông nước trong đời sống văn hóa Nam Bộ. Hà Nội: Nhà xuất bản Mỹ thuật. 2017;. 10. Thêm TN. Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn hóa văn nghệ. 2014;. 11. Gấm HT. Những biến đổi kinh tế - xã hội ở nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long từ năm1975 đến năm1995. Hà Nội: Nhà xuất bản Lý luận chính trị. 2007;. 12. Mai ND. Sắc thái văn hóa sông nước vùngUMinh. HàNội: Nhà xuất bản Dân trí. 2011;. 13. Nô D. Nông ngư cụ thủ công Kiên Giang. Kiên Giang: Sở Văn hóa Thông tin Kiên Giang. 1998;. 14. Hùng N. Chợ nổi Đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ. 2009;. 15. Lệ NV. Chợ nổi Đồng bằng sông Cửu Long - nét đặc trưng văn hóa của người Việt Nam bộ. Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ. 2014;17(X3):5–14. 16. Thương TM. Đặc điểm văn hóa sông nước miền Tây Nam bộ. Hà Nội: Nhà xuất bản Mỹ thuật. 2017;. 17. Trảng HN. Chơi & trò chơi và phong hóa. Trung tâm văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. Trò chơi dân gian & truyền thống. Thành phố Hồ Chí Minh. 2007;. 18. Trường M, Tú T. Quy luật về lũ, xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long đã thay đổi. Báo Tuổi trẻ. 2019;Avail- able from: https://tuoitre.vn/quy-luat-ve-lu-xam-nhap-man- tai-dbscl-da-thay-doi-20190619115142602.html. 19. Anh TTK. Những cách làm hay. Tạp chí Du lịch. 2016;Available from: 20. Thủ tướng Chính phủ. Quyết định Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 2016;Available from: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Quyet- dinh-2227-QD-TTg-Quy-hoach-phat-trien-du-lich-vung- dong-bang-song-Cuu-Long-den-2020-2016-330910.aspx. 917 Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):908-918 Open Access Full Text Article Review article Long Thoi Highschool, Nha Be, Ho Chi Minh city, Vietnam Correspondence Thieu Quang Thinh, Long Thoi Highschool, Nha Be, Ho Chi Minh city, Vietnam Email: thieuquangthinh@gmail.com History Received: 7/7/2020 Accepted: 12/03/2021 Published: 31/03/2021 DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.645 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Exploiting cultural values of water for developing Agritourism in theMekong Delta Thieu Quang Thinh* Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT Agritourism is a popular type of tourism in countries that have an advantage in agriculture. The development of agricultural tourism brings many opportunities for economic development and contributes to improving the social life of residents. The Mekong Delta is located in the lowland with thousands of densely crick-crossing canals formed by alluvium of the Mekong River. Its fertile soil is very favourable to aquatic rice and fruit-tree planting. The delta is the richest granary of Viet Nam. The Mekong Delta is also imbued with cultural identities. In this article, we will focus on analyzing cultural values of river in theMekong Delta including cuisine, river landscape, agricultural production culture, craft village culture, floating market, festivals, traditional arts, folk games, etc. The research uses data collection, aggregating, analysis, and information evaluation. Data sources are collected from books, research papers in journals and combined with field surveys. The results show that theMekongDelta, with its ownunique and unique strengths, is one of the ideal locations for agricultural tourism development in the country. Preserving and developing the cultural values of water play a special role in the trend of tourism integration and development nowadays. Key words: Agritourism, cultural values of river, the Mekong Delta Cite this article : Thinh T Q. Exploiting cultural values of water for developing Agritourism in the Mekong Delta. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):908-918. 918
File đính kèm:
- khai_thac_cac_gia_tri_van_hoa_song_nuoc_trong_phat_trien_du.pdf