Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa

Lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh

Thanh Hóa là một trong những lễ hội đặc sắc, có từ thời Lý, được khôi phục từ năm

2007 sau hơn nửa thế kỷ tạm dừng. Hội thi làm bánh răng bừa và bánh nhãn nhiều màu

trong lễ hội Trò Chiềng có nét riêng, tạo nên giá trị của lễ hội. Qua khảo sát thực tế và

tham khảo tư liệu, bài viết mô tả khái lược quy trình, cách chế biến các loại bánh truyền

thống, đồng thời cố gắng luận giải những ý nghĩa ẩn chứa trong hội thi, từ đó đề xuất

giải pháp bảo tồn và phát huy.

Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trang 1

Trang 1

Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trang 2

Trang 2

Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trang 3

Trang 3

Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trang 4

Trang 4

Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trang 5

Trang 5

Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trang 6

Trang 6

Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 5920
Bạn đang xem tài liệu "Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa

Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên Ninh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa
phố 
Thanh Hóa 30km về phía Tây. Đây là miền quê của trò diễn nổi tiếng có từ thời Lý đã 
đi vào ca dao:
 Trò Chiềng, vật Bộc, rối Si 
 Cơm đắp kẻ Lở, cơm thi kẻ Lào...
1 Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
50
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
 Người sáng lập ra Trò Chiềng là Tam Công Trịnh Quốc Bảo, người làng Trịnh Xá, 
làm quan dưới triều Lý Thái Tông (1028 - 1054). Ông là người có công giúp vua đánh 
Tống ở phía Bắc, dẹp yên giặc Chiêm Thành ở phía Nam nên được phong là Đông 
Phương Hắc Quang Đại Vương. Khi dàn trận, ông đã cho làm một đội voi nan giả làm 
voi thật khiến cho quân giặc khiếp sợ. Thắng trận, trò voi trận của Trịnh Quốc Bảo được 
nhà vua vời ra kinh đô để biểu diễn. Khi trở về quê nhà, ông đã tổ chức cho con cháu 
diễn lại các trận đánh xưa, đồng thời tiếp thu thêm các trò diễn từ đất Thăng Long về 
truyền lại cho dân làng. Khi mất, ông được phong là phúc thần làng Trịnh Xá (Trịnh Xá 
phúc thần, Đông phương vị hựu Hắc Quang Đại Vương).
 Lễ hội Trò Chiềng diễn ra từ ngày 10 đến 12 tháng giêng hàng năm. Theo truyền 
thống, bình thường dân làng tổ chức "trung trò" (diễn 5 - 6 trò), năm nào được mùa sẽ 
diễn "đại trò" (đủ 12 trò), nếu mùa màng thất bát thì chỉ diễn "tiểu trò" (chủ yếu là tế 
rước để giữ lễ trò). Đây là một lễ hội độc đáo nhằm thư giãn sức dân sau những ngày 
mùa vụ vất vả trong năm, đáp ứng nhu cầu tâm linh, cầu cho dân an vật thịnh, mùa 
màng tốt tươi. Theo quan niệm xưa, nếu người nào trong làng, xã không được tham gia 
lễ hội coi như cả năm xui xẻo. Trò Chiềng được duy trì trong cộng đồng làng xã qua 
gần 1000 năm cùng với hệ thống đền nghè, miếu dần dần hình thành. Từ nửa đầu thế kỷ 
XX, do điều kiện chiến tranh nên trò diễn bị gián đoạn, đến năm 2007 mới được khôi 
phục lại.
 Các vật dụng của Trò Chiềng được chuẩn bị công phu và tỉ mỉ, sáng tạo từ chính 
những vật liệu bằng tre quen thuộc với làng quê Việt Nam. Hệ thống của Trò Chiềng 
gồm 12 trò diễn (trò kén rể, rước cỗ vàng, trò rước cỗ gà, trò chọi voi...) đã tái hiện tất 
cả lĩnh vực của cuôc sống, lao động, sản xuất, chiến đấu, vui chơi, giải trí của dân làng, 
trong đó có hội thi làm các loại bánh (bánh nhãn, bánh răng bừa). Đây là hội thi thể hiện 
tình đoàn kết, sự yêu thương, giúp đỡ và chia sẽ lẫn nhau trong cuộc sống lao động, 
cũng như thể hiện được sự ấm no hạnh phúc của những con người nơi đây.
 3. Hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng
 Cũng như các lễ hội truyền thống khác, lễ vật dâng cúng thần linh trong lễ hội Trò 
Chiềng chủ yếu là các sản phẩm từ hoa quả, cây trồng, vật nuôi do chính những người 
dân làng nuôi trồng và các đặc sản ẩm thực địa phương. Hai đặc sản chính trong lễ hội 
là bánh răng bừa và bánh nhãn nhiều màu, đều được làm từ những hạt gạo, một sản 
phẩm nông nghiệp mang đậm linh hồn Việt. Việc chế biến hai món bánh này đã trở 
thành một phần khá sôi nổi trong lễ hội Trò Chiềng.
 Tên bánh răng bừa và bánh nhãn được gọi từ hình thể của hai loại bánh này. Đây 
là hai loại bánh phổ biến ở nhiều vùng quê Bắc Bộ, gắn liền với sản vật nông nghiệp và
 51
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
mong ước được no đủ của cư dân nông nghiệp. Tuy nhiên, mỗi nơi lại có những cách chế 
biến và thể hiện sản phẩm khác nhau. Trong lễ hội Trò Chiềng, hai loại bánh này còn trở 
thành thước đo cho cuộc thi giữa các đội và là vật phẩm dâng lên thần linh làng xã.
 Theo truyền thống, hội thi làm bánh được tổ chức giữa các giáp trong làng với 
nhau. Ngày nay, khi lễ hội được tổ chức với quy mô rộng hơn thì mỗi đội thi gồm một 
hay một vài thôn, làng. Nguyên liệu để làm bánh thường được các gia đình trong làng 
chuẩn bị kỳ công trong cả năm: trồng lúa, trồng vừng, nuôi lợn, làm mật... Người tham 
gia là những người phụ nữ có bàn tay khéo léo, được dân làng tin tưởng bầu chọn, trong 
năm không vướng tang gia...
 Bánh nhãn là loại bánh được làm ở nhiều địa phương, nhưng ở trong lễ hội Trò 
Chiềng, loại bánh này được làm rất cầu kỳ và có hương vị đặc biệt. Nguyên liệu làm 
bánh gồm: bột nếp, muối tinh, mật mía, vừng vàng, mỡ lợn (hoặc dầu rán) và không thể 
thiếu vỏ quả bưởi phơi khô. Vỏ bưởi là nguyên liệu tạo nên màu sắc và hương vị đặc 
biệt của loại bánh nhãn nơi đây. Vỏ bưởi được cắt mỏng, chỉ lấy phần vỏ màu xanh có 
tinh dầu, phơi khô từ trước và bảo quản cho đến kỳ lễ hội. Khi làm bánh, những người 
phụ nữ khéo léo hơ vỏ bưởi trên bếp than hồng, phải rất khéo léo để không cháy quá mà 
vẫn dậy mùi thơm và đã ngả màu đen, sau đó đem nghiền nhuyễn. Bột nếp được trộn 
với nước và muối theo tỷ lệ thích hợp, sau đó được chia làm hai phần: một phần để 
nguyên để tạo màu trắng, một phần trộn với vỏ bưởi đã nghiền để tạo màu đen. Tất cả 
được nhào bằng tay đến khi thật nhuyễn thì lăn đều và véo thành những viên to bằng 
quả nhãn. Sau đó đem các viên bánh nhãn đã được lăn tròn vào chiên trên chảo mỡ 
(hoặc dầu) đến khi bánh có độ ròn thì vớt ra, để ráo dầu cho vào chảo mật mía đã được 
đun nóng và lắc đều cùng với vừng vàng cho đều rồi vớt ra để nguội. Tất cả công đoạn 
đều phải làm thật khẩn trương và thật "chuẩn", bởi nếu bột khô quá hay nhão quá, chiên 
chưa tới độ hay chiên quá, đun trong mật nhanh hoặc lâu quá đều làm cho bánh không 
ngon. Cái tài của mỗi đội là có thể làm ra các viên bánh nhãn với độ dẻo, độ giòn khác 
nhau, hương vị, màu sắc từ trắng ngà, đến vàng giòn hay đen tùy theo gia giảm vỏ bưởi 
và mức độ chiên trong dầu (mỡ). Trong cùng một đĩa bánh, thực khách sẽ được thưởng 
thức những hương vị bánh, màu sắc bánh khác nhau, tạo nên sự thú vị lạ thường. Người 
ăn sẽ cảm nhận được vị ngọt của mật, xen lẫn với độ giòn của phần vỏ bánh và vị ngậy 
thơm của vừng, hương thơm của vỏ bưởi. Theo thời gian, bánh nhãn nhiều màu đã trở 
thành một đặc sản ẩm thực đậm đà của người dân làng Trịnh Xá trong ngày lễ hội cũng 
như ngày lễ tết hàng năm. Hương vị bánh nhãn trộn lẫn với hương bưởi thì chỉ có nơi 
đây mới có và được lưu truyền mãi đến ngày nay.
52
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
 Bên cạnh bánh nhãn nhiều màu, các đội còn thi làm bánh răng bừa. Loại bánh này 
nhiều vùng ở Bắc Bộ cũng làm dưới nhiều hình dáng khác nhau, với tên gọi chung là 
bánh lá. Bánh răng bừa được làm từ gạo tẻ, nhưng không phải loại gạo nào cũng làm 
được bánh ngon. Kinh nghiệm của người dân chỉ có thể làm từ một vài loại, hoặc trộn 
một số loại gạo tẻ theo tỷ lệ nhất định. Tỷ lệ này được truyền lại từ lâu đời trong cộng 
đồng, tùy theo kinh nghiệm mà gia giảm để có được bột làm bánh tốt nhất. Gạo được 
ngâm nước trong thời gian 2 - 3 tiếng rồi vớt ra xay nhỏ với nước. Ngày nay, mặc dù 
bột làm bánh thường được xay bằng máy, nhưng theo truyền thống phải xay bằng cối 
xay đá, phải xay đi xay lại nhiều lần thì bột mới mịn. Theo các cụ già, bột làm bánh 
được xay thủ công bao giờ cũng sánh mịn và có độ dẻo hơn hẳn bột xay bằng máy. Bột 
thường được bỏ thêm ít muối để tạo vị đậm đà, và hình như vị muối cũng làm cho bột 
bánh sánh, dẻo hơn. Bột và nước được gia giảm theo một tỷ lệ nhất định, không được 
loãng quá, cũng không được đặc quá. Sau đó ráo bột bằng bếp củi, trong quá trình ráo 
bột không được chín quá, độ dẻo vừa phải (nếu bột ráo đang còn sống gói dễ bị dính, 
không thể lăn cho bánh tròn được, nếu bột chín quá bánh dễ bị bở, nhão). Nhân bánh là 
tổng hòa của các hương vị từ hành khô, mộc nhĩ, thịt ba chỉ, hạt tiêu, gia vị. Có thể trộn 
thêm một ít bột vào nhân để tạo độ dẻo, quánh, khi hấp nhân bánh không bị rời rạc mà 
kết chặt với bột bánh. Bánh thường được gói bằng lá chuối hoặc lá dong cỡ nhỏ. Nếu 
gói bằng lá chuối phải chọn lá bánh tẻ, hơ lá trên lửa để lá dẻo, dễ gói. Người có kinh 
nghiệm thích gói bằng lá dong hơn, vì lá dong giữ được màu trắng và mùi thơm của 
bánh. Những người phụ nữ thoăn thoắt lấy đũa cả cho bột vào lá bánh, phải cho thật đều 
để bánh không bị cái to cái nhỏ, đẹp nhất là đảm bảo tỷ lệ: 1kg gạo làm 30 cái bánh. Bột 
thường rất dính nên nếu không khéo tay bột dễ lem ra xung quanh, người làm phải xoay 
tròn đũa cả để gạt bột thật đều và gọn trên lá. Nhân bánh được cho gọn vào giữa, rồi 
cuộn lá lại, gấp mép lá, bẻ gập hai đầu, cho vào nồi hấp cách thủy, tính từ lúc nước sôi 
khoảng 30 phút là bánh chín. Người có kinh nghiệm chỉ cần ngửi mùi thơm là đã biết 
bánh chín hay chưa, nếu cẩn thận thì bóc thử bánh, nếu phần bột và phần lá dễ dàng tách 
ra mà bột vẫn thành khối tròn lẳn là bánh đã chín tới. Yêu cầu các chiếc bánh phải đều 
nhau, thân trắng bóng, tròn lẳn, bánh dẻo, nhân ngậy và thơm. Sau đó vớt ra để cho ráo 
nước, khi bánh chín bóc phần lớp lá bên ngoài sẽ có mùi thơm đặc trưng của lá, độ dẻo 
dai của bánh, độ ngon ngọt và béo ngậy của nhân bánh. Bánh răng bừa chấm với nước 
mắm cốt đã để lại hương vị không thể quên cho những ai được thưởng thức một lần và 
nó tạo nên sự háo hức của ngày hội làng.
 Điểm đặc biệt của hội thi bánh là việc làm bánh không chỉ của một người mà cả 
đội phải cùng tham gia, trong đó mỗi người chỉ đảm nhận một khâu nhất định. Đối với
 53
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
việc làm bánh răng bừa, người lo xay bột, người ráo bột, người làm nhân, người hơ lá, 
lau lá, người gói bánh, người hấp bánh. Đối với việc làm bánh nhãn cũng như vậy: 
người nhào bột, người đốt vỏ bưởi, người vo bột, người chiên, người lăn vừng, mật. Có 
nhiều người tham gia nhưng yêu cầu phải làm nhanh và nhịp nhàng nên mọi thành viên 
phải phối hợp với nhau rất ăn ý, tạo nên không khí sôi nổi, rộn rã của ngày hội. Và hơn 
hết, đó là sự đoàn kết, đồng lòng, hòa thuận của các thành viên, mở rộng ra là sự hòa 
đồng, đoàn kết của dân làng, của cộng đồng làng - nước. Mỗi chiếc bánh nhãn, bánh 
răng bừa có thể gặp ở đó đây trên khắp mọi miền quê của đất nước, nhưng khi đã trở 
thành vật phẩm để thi tài, để dâng lên thần linh trong hội thì nó đã mang những ý nghĩa 
cao cả hơn. Hai loại bánh là kết tinh của những sản phẩm nông nghiệp tinh túy nhất: gạo 
nếp và gạo tẻ (lương thực đạo), thịt heo (vật nuôi quen thuộc nhất), hành, mộc nhĩ, hạt 
tiêu (gia vị thể hiện sự hài hòa âm dương)... Sản phẩm của đội thắng sẽ được lựa chọn 
để dâng cúng lên Thành hoàng làng như một lời cảm tạ của dân làng đối với thần linh 
đã ban cho mùa màng tươi tốt, vạn vật và con người sinh sôi, phát triển. Sự hiệp đồng 
trong quá trình làm bánh đã trở thành biểu tượng kết tinh của tinh thần đoàn kết, chung 
sức, đồng lòng. Từ đó, có thể nhận ra rằng, hội thi làm bánh là một trong số những trò 
diễn của lễ hội Trò Chiềng, không chỉ đơn thuần là cuộc thi với sự tôn vinh đội thắng 
cuộc, mà nó nằm trong hệ thống chung, phản ánh một phương diện của cuộc sống đa 
dạng: chiến đấu chống giặc ngoại xâm, lao động, sản xuất, các sinh hoạt văn hóa tinh 
thần... Đó là ước vọng cao cả của cộng đồng về một cuộc sống trọn vẹn, hạnh phúc và 
no đủ.
 4. Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị hội thi làm bánh trong lễ hội Trò 
Chiềng
 Sau hơn nửa thế kỷ tạm dừng, từ năm 2007, hội thi làm bánh được khôi phục cùng 
với sự khôi phục lễ hội Trò Chiềng. Sự đứt đoạn một thời gian khiến nhiều nghi lễ, hội 
thi, trò diễn trong lễ hội không khỏi bị mai một nhiều giá trị truyền thống. Sự mai một 
không chỉ ở phương diện trình tự, cách thức, mà cả ở cách nghĩ, cách hiểu và tâm thức 
của cộng đồng đối với lễ hội. Hội thi đã giản lược nhiều công đoạn (như xay bột bằng 
máy, được chuẩn bị trước hội thi...), và theo đó cũng giảm đi phần nào sự cầu kỳ, tinh tế 
của cách làm thủ công truyền thống. Nên chăng những cách chế biến truyền thống nên 
được tiếp diễn trong lễ hội để thêm phần náo nức và cầu kỳ, từ đó tạo thêm giá trị cho 
sản phẩm trước sự cổ vũ, chứng kiến của cộng đồng?
 Ngày nay, hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng thường được nghĩ đến với ý 
nghĩa đề cao sự khéo léo, tinh tế để làm ra những chiếc bánh ngon nhất, đẹp mắt nhất 
với tư cách là sản vật ẩm thực của quê hương. Những ý nghĩa truyền thống sâu xa của
54
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
hội thi làm bánh, hướng tới ước vọng no đủ, đầm ấm, sự cố kết cộng đồng dường như ít 
được để ý đến. Trong công tác quản lý lễ hội nên chăng cần chú ý hơn đến khía cạnh 
này, để cộng đồng được chắp nối lại với những giá trị cổ xưa, và như thế lễ hội mới 
thực sự có ý nghĩa, có vai trò sống động trong cộng đồng ngày nay.
 Khi du khách đến với lễ hội Trò Chiềng thích thú với sản vật ẩm thực chính là cơ 
hội để quảng bá cho sản vật địa phương. Chiếc bánh răng bừa, bánh nhãn có thể trở 
thành một sản phẩm du lịch hấp dẫn đối với mỗi du khách khi đến thăm vùng đất này, 
hòa mình vào không khí thiêng liêng và náo nức của lễ hội. Chính vì vậy, cần tổ chức 
quảng bá rộng rãi về sản phẩm ẩm thực của lễ hội truyền thống Trò Chiềng bằng nhiều 
hình thức khác nhau như: chụp ảnh tư liệu, quay video hoặc làm phim tư liệu về quá 
trình hội thi làm bánh, cũng như quá trình thực hiện từng công đoạn chuẩn bị, đến khi 
hoàn thành sản phẩm. Có sự lưu ý đến các nghệ nhân làm bánh, tập huấn, nhân rộng các 
cơ sở sản xuất để phục vụ nhu cầu của du khách. Có thể tổ chức các hoạt động cho du 
khách cùng tham gia vào quá trình làm bánh để trải nghiệm, từ đó quảng bá hình ảnh 
địa phương, thúc đẩy phát triển du lịch, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
 5. Kết luận
 Qua việc khảo sát hội thi làm bánh trong lễ hội Trò Chiềng làng Trịnh Xá, xã Yên 
Ninh, huyện Yên Định ta thấy rõ hơn lịch sử, văn hóa của một vùng đất đặc biệt, hòa 
chung vào nền văn hóa dân tộc tạo nên một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa 
dạng. Từ những sản vật nông nghiệp đặc trưng, người xưa đã biết sáng tạo ra nhiều món 
ăn độc đáo để vừa là thưởng thức, vừa là lễ vật dâng đến thần linh, Thành hoàng làng 
trong ngày lễ hội. Từ văn hóa ẩm thực của lễ hội cũng phần nào phản ánh được nét văn 
hóa nông nghiệp lúa nước đặc trưng của người Việt.
 Tài liệu tham khảo
 [1] . Như Hoa (2014,) Ẩm thực 3 miền: cẩm nang ẩm thực và du lịch Việt Nam, 
Nxb Văn hóa Thông tin.
 [2] . Mai Khôi (1996), Hương vị quê hương, Nxb Mỹ thuật.
 [3] . Nguyễn Quang Lê (2003), Văn hóa ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt 
Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.
 [4] . Võ Thúc Loan, Nguyễn Hữu Ngôn (2009), Văn hóa ẩm thực xứ Thanh, Nxb 
Thanh Hóa.
 55
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
THE CAKE-MAKING CONTEST OF TRO CHIENG FESTIVAL IN 
 TRINH XA VILLAGE, YEN NINH COMMUNE, YEN DINH 
 DISTRICT, THANH HOA PROVINCE
 Trinh Xuan Phuong
 Abstract: Tro Chieng festival in Trinh Xa village, Yen Ninh commune, Yen Dinh 
district, Thanh Hoa province is one o f specific festivals. It was originated in Ly Dynasty 
and restored in 2007 after more than a half century of cancellation. The contests of 
making rang bua and nhan cakes have created unique characteristics and special 
values of Tro Chieng festival. Through practical surveys and reference materials, the 
paper describes briefly the procedures and the ways of making traditional cakes, 
explains the deep meaning of the contest and proposes some solutions to preserve and 
promote the traditional values o f Tro Chieng festival.
 Key words: contest, Tro Chieng festival, food culture, traditional cake...
56

File đính kèm:

  • pdfhoi_thi_lam_banh_trong_le_hoi_tro_chieng_lang_trinh_xa_xa_ye.pdf