Hoàn thiện quy định pháp lý về tội khủng bố trong bộ luật hình sự năm 2015
Bài viết phân tích một số vướng mắc, bất cập trong quy định về tội danh khủng bố quy định
tại Điều 299 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015). Từ đó,
đưa ra các phương hướng cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về tội danh này
trong BLHS và nâng cao nhận thức của người có thẩm quyền trong công tác áp dụng pháp luật
tại các giai đoạn tiến hành tố tụng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện quy định pháp lý về tội khủng bố trong bộ luật hình sự năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện quy định pháp lý về tội khủng bố trong bộ luật hình sự năm 2015
ch nhiệm hình sự đối với nhóm các hành vi này mà chưa tạo ra cơ sở pháp lý để đấu tranh với các hành vi khủng bố khác như hành vi kêu gọi công khai thực hiện hành vi khủng bố; biện minh công khai hoặc tuyên truyền chủ nghĩa khủng bố; tổ chức và tham gia vào hoạt động của cộng đồng khủng bố; tổ chức và tham gia vào nhóm vũ trang bất hợp pháp...8. Điểm a khoản 2 Điều 299 đề cập tới hành vi “thành lập, tham gia tổ chức khủng bố, tổ chức tài trợ khủng bố”, đồng thời hành vi này cũng được quy định tại Điều 300 (Tội tài trợ khủng bố). Đây là sự không thống nhất về cùng một loại 8 Đỗ Khắc Hưởng (2015), Luận án Tiến sĩ: “Các tội phạm về khủng bố trong luật hình sự Việt Nam”, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 112-113. BÙI ĐÌNH TRỌNG 15Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát hành vi vì tài trợ khủng bố có thể thực hiện dưới danh nghĩa cá nhân, nhóm người hoặc tổ chức tiến hành và nếu do tổ chức tiến hành thì phải có bước thành lập, tham gia. Thứ tư, về sự mô tả hành vi nguy hiểm cho xã hội giữa tội khủng bố với một số tội phạm khác quy định trong BLHS năm 2015 Đối chiếu, so sánh quy định pháp lý hình sự tại Điều 299 và Điều 113 cho thấy sự chồng chéo trong quy định về hành vi nguy hiểm cho xã hội giữa hai tội phạm này. Cụ thể, hành vi “xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân” tại khoản 1 Điều 299 trùng với hành vi tại khoản 1 Điều 113; hành vi quy định tại điểm a, b, d khoản 2 Điều 299 trùng với hành vi quy định tại điểm a, b, d khoản 2 Điều 113; hành vi “xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân” được quy định không chỉ tại điểm c khoản 2 Điều 299 mà còn được quy định cả tại điểm c khoản 2 Điều 113; hành vi “đe dọa xâm phạm tính mạng, đe dọa phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có hành vi uy hiếp tinh thần” quy định tại khoản 3 Điều 299 trùng với hành vi quy định tại khoản 3 Điều 299. Bên cạnh đó, cũng tồn tại sự lặp lại về hành vi nguy hiểm cho xã hội giữa tội khủng bố với tội giết người (Điều 123); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134); tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157). Thực chất, hành vi xâm phạm tính mạng của con người trong tội khủng bố có cùng bản chất, nội dung, hình thức thể hiện với hành vi nguy hiểm của tội giết người. Hành vi xâm phạm đến tự do thân thể, sức khỏe quy định tại điểm c khoản 2 Điều 299 trùng lặp với hành vi quy hiểm cho xã hội của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. 3. Khuyến nghị hoàn thiện nội dung quy định về tội khủng bố trong Bộ luật hình sự năm 2015 Từ những vướng mắc, bất cập nêu trên, tác giả cho rằng để hoàn thiện quy định pháp lý tại Điều 299 BLHS năm 2015 cần: Một là, sửa đổi, quy định rõ dấu hiệu mục đích của tội khủng bố Hiện nay, trong cấu thành tội phạm của tội khủng bố, “trạng thái tâm lí lo lắng của người dân về sự an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ” là dấu hiệu cho phép phân biệt tội khủng bố với tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân quy định tại Điều 113 BLHS năm 2015 và với các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể cũng như các tội cố ý xâm phạm sở hữu9. Đồng thời, đây cũng là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội khủng bố. Sở dĩ như vậy bởi trong BLHS có hai tội danh là khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113) và tội khủng bố (Điều 299). Trong khi đó, hầu hết các quốc gia trên thế giới chỉ quy định một tội danh “Tội khủng bố” duy nhất trong BLHS của quốc gia mình10. Theo quy định của luật pháp quốc tế cũng như pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, các đối tượng khủng bố thường thực hiện những hành vi đặc biệt nguy hiểm có khả năng gây thương vong lớn cho người dân như đánh bom, mìn, gây cháy, nổ, để gây ra tình trạng hoảng sợ trong dân chúng, qua đó tác động, đưa ra yêu sách đối với chính quyền, tổ chức quốc tế thực hiện hoặc không thực hiện yêu sách của chúng11. Cụ thể như: Khoản 1 Điều 1 Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin quy định “người nào bắt giữ hoặc giam cầm và đe doạ giết, làm bị thương hoặc tiếp tục giam cầm người khác nhằm mục đích cưỡng ép bên thứ ba, cụ thể là một quốc gia, một tổ chức quốc tế liên chính phủ, một pháp nhân hoặc một thể nhân hoặc một nhóm người phải làm hoặc không làm một việc nào đó như một điều kiện rõ ràng hoặc ngầm hiểu để phóng thích con tin, thì bị coi là phạm tội bắt con tin”; điểm b khoản 1 Điều 2 Công ước quốc tế 9 Nghị quyết số 07/2019/NQ-HĐTP ngày 25/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 299 và Điều 300 của Bộ luật hình sự”. 10 Дорофеев Никита Александрович (2019), Магистерская диссертация: Уголовная ответственность за террористический акт, Кафедра уголовного права и криминологии, Институт - Алтайский государственный университет, Барнаул, С 91 , стр 13-18 (Dorofeev Nikita Alexsandvich (2019), Luận văn Thạc sĩ: Trách nhiệm hình sự đối với hành vi khủng bố, Bộ môn Luật hình sự và Tội phạm học, Đại học Tổng hợp Quốc gia Altai, Thành phố Barnaul, tr. 13-18). 11 Đỗ Khắc Hưởng (2015), tlđd, tr66. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LÝ... 16 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 về trấn áp hành vi tài trợ cho khủng bố quy định “Hành vi khác với ý định giết hại hoặc làm bị thương nặng thường dân, hoặc người khác không tham gia tích cực vào hoạt động thù địch trong hoàn cảnh có xung đột vũ trang khi xét về bản chất hoặc hoàn cảnh xảy ra thì hành vi đó có mục đích khủng bố dân cư hoặc ép buộc một Chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế làm hoặc không làm một việc gì”. Trong khi đó, pháp luật của nhiều nước cũng quy định “nhằm mục đích chính trị” là dấu hiệu của hành vi khủng bố như tại khoản 1 Điều 205 BLHS Liên bang Nga quy định “Thực hiện hoặc đe dọa thực hiện vụ nổ, cháy hoặc các hành vi khác đe dọa người dân hoặc gây thiệt thiệt hại đáng kể về vật chất hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng khác nhằm mục đích tác động đến việc thông qua các quyết định của các cơ quan chính quyền hoặc các tổ chức quốc tế thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm”12 vv. Thực tiễn cũng cho thấy, các đối tượng thực hiện các hành vi khủng bố cũng thường hướng tới việc thực hiện yêu sách của chúng. Điển hình như các đối tượng khủng bố của tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS tiến hành các hành vi như đánh bom liều chết, sát hại thường dân vô tội bằng các hình thức man dợ vv, nhằm chiếm giữ một phần lãnh thổ trải dài rộng lớn và thành lập nhà nước tự xưng là một “Vương quốc Hồi giáo”. Từ những phân tích trên cho thấy, cần phải sửa đổi, quy định rõ mục đích của tội phạm quy định tại Điều 299 BLHS năm 2015 theo hướng “Thực hiện hành vi dẫn tới tình trạng hoảng sợ trong công chúng hoặc gây thiệt hại đáng kể về vật chất hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng khác nhằm mục đích tác động đến việc thông qua các quyết định của các cơ quan chính quyền hoặc các tổ chức quốc tế thì”. Hai là, loại bỏ việc sử thuật ngữ “người khác” trong nội dung điều luật Tuy được sử dụng để chỉ rõ đối tượng tác động của tội khủng bố với mục đích “gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng” và là cơ sở để phân biệt đối tượng tác động của tội phạm quy định tại Điều 299 với đối tượng tác 12 Уголовный кодекс Российской Федерации» от 13.06.1996 N 63-ФЗ (ред. от 24.02.2021, с изм. От 08.04.2021. (Bộ luật hình sự Liên bang Nga ngày 13/6/1996 số 63.FZ – sửa đổi ngày 24/02/2021, chỉnh sửa ngày 08/4/2021). Nguồn truy cập: consultant.ru/document/cons_doc_LAW_10699/ . động quy định tại Điều 113 và một số tội phạm khác của BLHS nhưng thuật ngữ “người khác” chưa được quy định và giải thích tại bất kỳ văn bản pháp lý nào. Nghiên cứu các quy định trong BLHS cho thấy, đối với một số tội phạm có những điểm tương đồng về hành vi phạm tội thực hiện (như đã đề cập ở trên) trong nội dung của Điều luật, không nhất thiết phải chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm. Đồng tình với quan điểm lập pháp này, tác giả cho rằng để tránh những suy luận chủ quan, không cần thiết về đối tượng tác động của tội phạm quy định tại Điều 299 thì không cần quy định về đối tượng tác động (người khác) trong nội dung điều luật. Đồng thời, Điều 5 Nghị quyết số 07/2019/ NQ-HĐTP đã quy định về việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể. Theo đó, trường hợp đối tượng phạm tội thực hiện hành vi khủng bố mà xâm hại đến tính mạng của những người không phải là cán bộ, công chức với mục đích tác động đến việc thông qua các quyết định của các cơ quan chính quyền hoặc các tổ chức quốc tế thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 113. Trong trường hợp đối tượng phạm tội thực hiện hành vi khủng bố mà xâm hại đến tính mạng của người khác không hướng tới mục đích chống chính quyền nhân dân cũng như mục đích tác động đến việc thông qua các quyết định của các cơ quan chính quyền hoặc các tổ chức quốc tế thì tùy từng trường hợp cụ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng. Ba là, loại bỏ quy định về nhóm hành vi “thành lập, tham gia tổ chức tài trợ khủng bố” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 299 BLHS năm 2015 “Thành lập, tham gia tổ chức tài trợ khủng bố” là nhóm hành vi nguy hiểm cần phải loại trừ ra khỏi đời sống xã hội nhưng nhóm hành vi này đã được quy định tại Điều 300 BLHS năm 2015. Bởi lẽ, hành vi tài trợ khủng bố có thể được thực hiện dưới danh nghĩa của cá nhân, nhóm người hoặc tổ chức tiến hành và nếu do tổ chức tiến hành thì phải có bước thành lập, tham gia vào tổ chức tài trợ khủng bố. Do đó, không cần thiết phải quy định về nhóm hành vi “thành lập, tham gia tổ chức tài trợ khủng bố” tại Điều 299 BLHS năm 2015. Bốn là, chỉ rõ hành vi khủng bố điển hình để thông qua đó, hình thành nhóm hành vi CTTP cơ 17Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát bản và xây dựng nhóm hành vi cấu thành tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ quy định tại điều luật này Thực tế vụ khủng bố kinh hoàng tại Mỹ ngày 11/9/2001, vụ đánh bom khủng bố tại Thái Lan ngày 18/08/2015, vụ đánh bom liên hoàn đẫm máu tại Sri Lanka ngày 21/04/2019, vụ đánh bom khung bố tại Philippin ngày 24/08/2020, các vụ khủng bố do các đối tượng của tổ chức khủng bố IS thực hiện, cũng như các vụ khủng bố do các đối tượng của tổ chức khủng bố “Việt Tân”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” và “Triều đại Việt” thực hiện tại nước ta thời gian qua chỉ ra rằng để đạt được mục đích của mình, các đối tượng khủng bố thường tiến hành các vụ nổ, cháy hoặc thực hiện các hành vi khác. Tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia cho thấy, quy định về tội khủng bố của các quốc gia thường khái quát hóa các hành vi khủng bố điển hình để hình thành CTTP cơ bản của tội phạm. Điển hình như tại Điều 205 BLHS Liên bang Nga quy định “Thực hiện đe dọa thực hiện vụ cháy, nổ hoặc các hành vi khác dẫn tới tình trạng hoảng sợ trong công chúng hoặc gây thiệt thiệt hại đáng kể về vật chất hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng khác nhằm mục đích tác động đến việc thông qua các quyết định của các cơ quan chính quyền hoặc các tổ chức quốc tế thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm”. Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng cần khái quát hóa hành vi khủng bố điển hình như cháy, nổ hoặc các hành vi khác để thông qua đó hình thành nhóm CTTP cơ bản, trên cơ sở đó xây dựng nhóm hành vi cấu thành tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ quy định tại điều luật này. Năm là, cần tách nhóm hành vi quy định tại khoản 2 Điều 299 thành các điều luật tương ứng. Đồng thời, cần nghiên cứu “pháp điển hóa” một số hành vi khủng bố chưa được quy định tại Điều 299 như hành vi kêu gọi công khai thực hiện hành vi khủng bố, biện minh công khai hoặc tuyên truyền chủ nghĩa khủng bố, tổ chức và tham gia vào hoạt động của cộng đồng khủng bố, tổ chức và tham gia vào nhóm vũ trang bất hợp pháp... và quy định thuộc Mục 3 Chương XXI “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng” BLHS năm 2015. Tóm lại, tội khủng bố quy định tại Điều 299 BLHS năm 2015 là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn. Mặc dù đã có những bước tiến không ngừng, tuy nhiên trước yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống khủng bố tại Việt Nam và xu thế hợp tác toàn cầu trong lĩnh vực này thì việc hoàn thiện quy định pháp lý đối với tội khủng bố cần phải tiếp tục xem xét kỹ lưỡng, tỉ mỉ./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979. 2. Công ước quốc tế về trấn áp hành vi tài trợ cho khủng bố. 3. Đỗ Khắc Hưởng (2015), Luận án Tiến sĩ: “Các tội phạm về khủng bố trong luật hình sự Việt Nam”, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. 4. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (2009), “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự”, Đặc san tuyên truyền pháp luật, số 07, Hà Nội. 5. Nghị quyết số 07/2019/NQ-HĐTP ngày 25/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại điều 299 và điều 300 của Bộ luật hình sự”. 6. Phạm Thái Sơn (2020), Luận văn Thạc sĩ: “Các tội phạm về khủng bố trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015”, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội. 7. Дорофеев Никита Александрович (2019), Магистерская диссертация: Уголовная ответственность за террористический акт, Кафедра уголовного права и криминологии, Институт - Алтайский государственный университет, Барнаул, С 91 , стр 13-18 (Dorofeev Nikita Alexsandvich (2019), Luận văn Thạc sĩ, Trách nhiệm hình sự đối với hành vi khủng bố, Bộ môn Luật hình sự và Tội phạm học, Đại học Tổng hợp Quốc gia Altai, Thành phố Barnaul, tr. 13-18). 8. Постановление Пленума Верховного Суда РФ от 09.02.2012 N 1 (ред. от 03.11.2016) «О некоторых вопросах судебной практики по уголовным делам о преступлениях террористической направленности» (Nghị quyết số 1 ngày 09/02/2012 của Hội đồng Tòa án tối cao Liên bang Nga – sửa đổi ngày 03/11/2016 Về một số vấn đề thực tiễn tư pháp trong các vụ án hình sự về các tội phạm khủng bố). 9. Правовая основа борьбы с экстремизмом и терроризмом (Cơ sở pháp lý nhằm chống chủ nghĩa cực đoan và khủng bố). 10. Уголовный кодекс Российской Федерации» от 13.06.1996 N 63-ФЗ (ред. от 24.02.2021, с изм. От 08.04.2021 (Bộ luật hình sự Liên bang Nga ngày 13/6/1996 số 63-FZ – sửa đổi ngày 24/02/2021, chỉnh sửa ngày 08/4/2021). 11. Федеральный закон «О противодействии терроризму» от 06.03.2006 N 35-ФЗ (Luật chống khủng bố ngày 06/3/2006 số 35-FZ của Liên bang Nga).
File đính kèm:
- hoan_thien_quy_dinh_phap_ly_ve_toi_khung_bo_trong_bo_luat_hi.pdf