Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử
Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh
mẽ, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã bổ sung quy định dữ liệu điện tử là một trong
những nguồn chứng cứ mới và có giá trị chứng minh như các nguồn chứng cứ thông thường. Thông
qua nghiên cứu lý luận về chứng cứ là dữ liệu điện tử và thực tiễn công tác, bài viết đánh giá thực
trạng của quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật
về chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử để đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử
hể cảm nhận được bằng các giác quan của con người và lưu trữ một cách toàn vẹn các thông tin đã thu thập được. Điều 196 BLTTHS năm 2015 quy định việc thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện và có thể mời người có chuyên môn liên quan tham gia. Trên thực tế, các cơ quan điều tra cấp huyện không có cán bộ và thiết bị chuyên môn về lĩnh vực này nên nhiều khi thực hiện các hoạt động có thể ảnh hưởng đến dữ liệu trong thiết bị như kết nối mạng, chụp ảnh màn hình, trích xuất bằng các thiết bị có thể đọc, ghi dữ liệu Để tránh các trường hợp làm mất mát hoặc can thiệp làm thay đổi dữ liệu, cần quy định việc khám xét, thu thập dữ liệu phải do đội ngũ có chuyên môn thực hiện. Cần sửa đổi quy định của BLTTHS theo hướng có tính mở để phù hợp với thực tiễn như “trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể thực hiện việc thu thập dữ liệu điện tử nhưng phải ghi rõ vào biên bản tố tụng”. 2.2. Thu thập, đánh giá chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử hỏi cung, lấy lời khai bằng hình thức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh Ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật để ghi lại âm thanh hoặc hình ảnh có âm thanh trong quá trình hỏi cung bị can; lấy lời khai HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨNG CỨ... 42 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội; lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đương sự; đối chất; tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Ghi âm việc hỏi cung đã được quy định trong BLTTHS năm 2003 và đã được một số cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh để củng cố chứng cứ, phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử5. Để đảm bảo quyền con người theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và tiến trình cải cách tư pháp, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về ghi hình có âm thanh và các trường hợp lấy lời khai các đối tượng khác cần phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Đây là biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng từ nguồn dữ liệu điện tử để phục vụ cho việc đấu tranh đối với các đối tượng không thành khẩn khai báo, thay đổi lời khai vì lý do bị bức cung, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời ngăn ngừa việc bức cung, dùng nhục hình, giúp bảo đảm tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Căn cứ BLTTHS năm 2015, ngày 01/02/2018, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT- BCA-VKSNDTC- TANDTC-BQP hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử (Thông tư liên tịch số 03/2018). Ngày 21/7/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quy trình tạm thời Kiểm sát việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh của cơ quan có thẩm quyền điều tra; trực tiếp ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can, lấy lời khai trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố kèm theo Quyết định số 264/QĐ-VKSTC. Hai văn bản này đã hướng dẫn cơ bản đầy đủ việc thực hiện ghi âm, ghi hình trong hoạt động tiến hành tố tụng hình sự; tuy nhiên, đều chưa có hướng dẫn cụ thể về việc lập biên bản hỏi cung, lấy lời khai hay biên bản về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh. Về bản chất, việc ghi âm, ghi hình có âm 5 Khoản 2 Điều 132, khoản 1 Điều 200 BLTTHS năm 2003. thanh là việc sử dụng máy móc để ghi lại nguyên vẹn và chính xác lời khai của những người tham gia tố tụng về các thông tin liên quan đến vụ án. Bằng các quy trình chặt chẽ, người tiến hành tố tụng gần như không thể can thiệp để thay đổi các nội dung đã ghi. Đối với việc ghi biên bản hỏi cung, lấy lời khai thông thường, nội dung biên bản không thể ghi chính xác từng lời nói của đối tượng mà chỉ có có thể tóm tắt lời khai, phụ thuộc nhiều vào lăng kính chủ quan của của người tiến hành tố tụng. Có những trường hợp vì e ngại mà đối tượng được hỏi chấp nhận ký vào biên bản mặc dù trái với ý chí của mình. Vì vậy, dữ liệu ghi âm, ghi hình có giá trị chứng minh của chứng cứ cao hơn so với nội dung biên bản hỏi cung, ghi lời khai do đảm bảo hơn về tính khách quan. Hiện nay, khi cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành việc hỏi cung, lấy lời khai bằng hình thức ghi âm, ghi hình có âm thanh, người tiến hành tố tụng vẫn phải ghi biên bản hỏi cung, lấy lời khai, ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, người tham gia tố tụng, các câu hỏi và câu trả lời của họ như trước khi có BLTTHS năm 2015 và bổ sung thêm các nội dung về hoạt động ghi âm, ghi hình có âm thanh theo Thông tư liên tịch số 03/2018. Trường hợp này sẽ đảm bảo thực hiện đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 133 và khoản 1 Điều 184 BLTTHS 2015: “Khi tiến hành hoạt động tố tụng phải lập biên bản theo mẫu thống nhất. Biên bản ghi rõ, nội dung của hoạt động tố tụng” và “Mỗi lần hỏi cung bị can đều phải lập biên bản. Biên bản hỏi cung bị can phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi và câu trả lời...”. Người nghiên cứu vụ án ở giai đoạn sau không cần phải nghe, xem lại các bản ghi âm, ghi hình có âm thanh mà chỉ cần nghiên cứu các biên bản hỏi cung, ghi lời khai. Điều này cũng được ghi nhận tại khoản 3 Điều 5 Quyết định số 264/QĐ-VKSTC6. Như vậy, so với BLTTHS năm 2013, việc ghi âm, ghi hình có âm thanh không phải là một biện pháp tố tụng mới mà chỉ là sự bổ trợ cho việc hỏi cung, lấy lời khai và là công cụ để kiểm tra 6 Khoản 3 Điều 5 Quyết định số 264/QĐ-VKSTC: “Đối với các trường hợp mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì tiến hành kiểm sát việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thông qua việc nghiên cứu biên bản hỏi cung bị can, lấy lời khai có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh” LÊ THANH NGHỊ - HOÀNG THỊ MINH PHƯƠNG 43Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát lại các hoạt động này có được tiến hành khách quan hay không. Đối với trường hợp biên bản hỏi cung, lấy lời khai chỉ ghi nhận về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh đối với đối tượng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2018, việc không ghi nội dung lời trình bày của đối tượng, các câu hỏi và câu trả lời sẽ giúp cho người tiến hành lấy lời khai, hỏi cung tập trung trong việc ghi nhận, đánh giá lời khai, từ đó nâng cao hiệu quả đấu tranh và khai thác thông tin từ các đối tượng. Mặt khác, theo yêu cầu của cải cách tư pháp về việc đảm bảo tranh tụng trong xét xử thì Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa sẽ dựa vào lời khai trực tiếp của người tham gia tố tụng, trường hợp có mâu thuẫn với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố thì mới công bố lời khai trong giai đoạn trước. Việc tiến hành theo phương pháp này sẽ đảm bảo tốt cho việc thực hiện nguyên tắc khách quan và tranh tụng trong xét xử, phù hợp với thực tiễn. Có thể tham khảo quy định về chứng cứ là băng, đĩa ghi âm, ghi hình quy định tại khoản 2, 5 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự năm 20157. Như vậy, cần có những điều chỉnh về mặt pháp luật theo hướng quy định rõ ràng hơn việc lập biên bản hỏi cung, lấy lời khai trong trường hợp ghi âm, ghi hình có âm thanh để đảm bảo việc thực hiện được thống nhất. Đồng thời, có thể xem xét việc bổ sung thêm các cơ chế: Khi tiến hành việc hỏi cung, lấy lời khai, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải làm văn bản về tóm tắt nội dung hỏi cung, lấy lời khai để người tiến hành tố tụng sau nhanh chóng nắm được các nội dung liên quan. 2.3. Vướng mắc trong việc xử lý chứng cứ 7 Khoản 2, 5 Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. [] 5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này” từ nguồn dữ liệu điện tử Một trong những yêu cầu để đảm bảo giá trị của dữ liệu điện tử là cách thức đảm bảo và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử. Cùng với sự phát triển của công nghệ, dữ liệu điện tử không chỉ được duy trì trên một hoặc một số thiết bị vật lý nhất định mà dữ liệu được sao chép, phân tán trên nhiều thiết bị, hệ thống lưu trữ khác nhau thông qua mạng Internet. Vì vậy, điều này đặt ra nhiều vấn đề pháp lý trong việc xử lý các chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử. Thứ nhất, đối với dữ liệu điện tử lưu trữ trên mạng máy tính, mạng viễn thông, BLTTHS chỉ quy định về việc thu thập, lưu trữ, bảo quản dữ liệu điện tử mà không quy định về việc xử lý vật chứng. Trong một số vụ án, dữ liệu điện tử là thông tin ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác được đăng tải trên không gian mạng phải được gỡ bỏ để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Luật An ninh mạng năm 2018 quy định Chủ quản hệ thống thông tin trên hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý; tổ chức, cá nhân soạn thảo, đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có trách nhiệm gỡ bỏ thông tin có nội dung làm nhục, vu khống người khác khi có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng. BLTTHS năm 2015 quy định các cách thức xử lý vật chứng là những chứng cứ ở dạng hữu hình mà không có quy định về xử lý chứng cứ ở những dạng phi vật thể. Vì vậy, có vụ án Cơ quan điều tra đã tiến hành sao lưu dữ liệu điện tử từ không gian mạng, có xác nhận của người phát tán thông tin, người làm chứng và thay đổi mật khẩu truy cập vào tài khoản để tránh trường hợp khi bị can không bị tạm giam sẽ xóa dữ liệu đã đăng lên. Do vướng mắc về việc đảm bảo tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử mà các cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý vụ án cũng không xóa tài khoản và các thông tin có nội dung ảnh hưởng danh dự, nhân phẩm của người bị hại. Đến khi vụ án được giải quyết xong, có bản án có hiệu lực pháp luật thì các video, hình ảnh nhạy cảm của người bị hại vẫn tồn tại trên không gian mạng.8 8 Vụ án Lò Văn Đ phạm tội Làm nhục người khác, quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự và Cưỡng đoạt tài sản quy định khoản 2 Điều 170 Bộ luật hình sự xảy ra tại thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨNG CỨ... 44 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 Thứ hai, khó khăn trong việc xử lý các trường hợp sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội Trong quá trình thu thập dữ liệu điện tử, cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ thu giữ các thiết bị lưu trữ dữ liệu điện tử mà còn có thể phải thu giữ các thiết bị khác có liên quan như các thiết bị mạng gắn với máy tính để kết nối với mạng Internet nhằm phục vụ điều tra. Trên thực tế, việc xử lý vật chứng trong trường hợp này còn nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất trong việc trả lại hay tịch thu sung quỹ các thiết bị nêu trên. Theo quan điểm của tác giả, nếu đối tượng có ý định phạm tội từ trước, sau đó chuẩn bị các công cụ, phương tiện để phạm tội thì cần tịch thu; nếu các công cụ, phương tiện đã có sẵn được sử dụng trước khi đối tượng nảy sinh ý định phạm tội thì không cần tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu. Quan điểm này cũng tương tự như hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 04/9/2018 về việc áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật hình sự: “Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber.... để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa...) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật hình sự.” Thứ ba, đối với các phương tiện điện tử lưu trữ các thông tin là bí mật cá nhân, các hình ảnh, video nhạy cảm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của người khác là các công cụ dùng vào việc phạm tội, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015, vật chứng còn giá trị sử dụng cần tịch thu để sung quỹ nhà nước. Hiện nay, Tòa án không quyết định trong bản án về việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xóa các thông tin này và cơ quan thi hành án dân sự cũng không có Điện Biên. trách nhiệm thực hiện việc xóa các thông tin trên các thiết bị trước khi đem bán đấu giá. Nếu các thiết bị này được bán ra cho người khác sử dụng sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của người bị hại. 3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thu thập, đánh giá chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn công tác trong việc thu thập, đánh giá, xử lý chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự để triển khai thực hiện có hiệu quả hơn trong thời gian tới, cụ thể như sau: - Cần nghiên cứu, tham khảo ý kiến các cơ quan chuyên môn và thực tiễn công tác điều tra trong việc sử dụng các thuật ngữ liên quan đến dữ liệu điện tử, chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử; - Làm rõ quy định về khám xét dữ liệu điện tử và thu giữ dữ liệu điện tử trong BLTTHS; - Bổ sung quy định về vai trò của Viện kiểm sát trong việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong việc thu thập dữ liệu điện tử; - Bổ sung quy định về thu giữ, xử lý vật chứng là các phương tiện điện tử, đặc biệt là các phương tiện điện tử lưu trữ các thông tin về bí mật cá nhân, thông tin ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân; - Nghiên cứu hoạt động hỏi cung, lấy lời khai bằng hình thức ghi âm, ghi hình có âm thanh của một số nước theo mô hình tố tụng tranh tụng để rút ra những ưu điểm và hạn chế khi áp dụng, từ đó sửa đổi quy định của Thông tư liên tịch số 03/2018 theo hướng ghi âm, ghi hình khi hỏi cung, lấy lời khai là hoạt động thu thập chứng cứ hay chỉ là hình thức bổ trợ cho các biên bản hỏi cung, biên bản ghi lời khai; - Bổ sung quy định về thẩm quyền xử lý và cơ chế xử lý các dữ liệu điện tử trên không gian mạng cũng như các cách thức tiến hành để tránh việc tiếp tục phát tán các thông tin trên không gian mạng./.
File đính kèm:
- hoan_thien_phap_luat_to_tung_hinh_su_ve_chung_cu_tu_nguon_du.pdf