Hoàn thiện dự thảo nghị định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Ngày 21/9/2020, Dự thảo Nghị định về Bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ đã được công bố để lấy ý kiến rộng rãi mọi cá nhân, tổ chức1
(Dự thảo Nghị định). Trong phạm vi bài viết này, các tác giả phân
tích, đánh giá tổng quan về kết cấu, nội dung của Dự thảo Nghị
định trong việc đáp ứng các chính sách lớn mà Chính phủ đặt ra
khi xây dựng Nghị định này, đồng thời đề xuất một số nội dung
cần tiếp tục hoàn thiện để tạo dựng khung pháp lý thuận lợi hơn
nữa, thúc đẩy khai thác tối đa giá trị kinh tế của tài sản bảo đảm.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện dự thảo nghị định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện dự thảo nghị định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
chiếm giữ và nắm giữ tài sản tương ứng với từng biện pháp bảo đảm và từng loại tài sản bảo đảm để xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Trên thực tế, đã có một số ý kiến đề nghị làm rõ nội hàm khái niệm nắm giữ theo một trong ba, nghĩa là nắm giữ thực tế tài sản, hay nắm giữ về mặt pháp lý (nắm giữ giấy tờ về tài sản bảo đảm) hay nắm giữ có tính chất kiểm soát chi phối tài sản14. Tác giả cho rằng, thay vì giải thích theo một trong ba cách như trên, Dự thảo Nghị định cần giải thích khái niệm nắm giữ theo hướng rộng nhất bao hàm cả 3 cách diễn giải trên để bao quát đầy đủ các phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba tương ứng với từng loại tài sản bảo đảm. Trên tinh thần đó, Điều 24 Dự thảo Nghị định cần được xây dựng thành một quy định chung diễn giải triệt để tinh thần của Điều 297 BLDS 2015 theo hướng: Chiếm giữ tài sản bảo đảm là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng người thứ ba được áp dụng với biện pháp cầm giữ15; nắm giữ tài sản bảo đảm, với tư cách là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba bao gồm các khả năng là (a) nắm giữ thực tế, (b) nắm giữ về mặt pháp lý và (c) nắm giữ có tính chất kiểm soát chi phối tài sản, cụ thể như sau: Nắm giữ thực tế, theo quy định của khoản 2 và khoản 3 Điều 24 Dự thảo Nghị định, có thể hiểu Dự thảo Nghị định đã tiếp cận phương thức nắm giữ tài sản theo nghĩa rộng bao hàm cả trường hợp bên nhận bảo đảm nắm giữ tài sản bảo đảm và trường hợp bên thứ ba nắm giữ tài sản. Cách tiếp cận này đã đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, Dự thảo Nghị định cần duy trì cách tiếp cận hiện nay; đồng thời, cần quy định cụ thể phương thức nắm giữ thực tế được áp dụng chung để xác lập hiệu lực đối kháng của cầm cố, và được hiểu bao gồm cả hai trường hợp: (1) Bên nhận bảo đảm thực tế nắm giữ tài sản đó, (2) Bên nhận bảo đảm ủy quyền cho bên thứ ba nắm giữ tài sản đó và bên thứ ba đồng ý tuân theo chỉ dẫn của bên nhận bảo đảm16. Nắm giữ về mặt pháp lý: Dự thảo Nghị định cần quy định, trong trường hợp chứng từ hàng hóa được sử dụng làm tài sản bảo đảm và bên nhận bảo đảm nắm giữ chứng từ đó nhằm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba, thì bên nhận bảo đảm cũng được coi là nắm giữ hàng hóa thể hiện trên chứng từ17. Nắm giữ có tính chất kiểm soát chi phối tài sản: Dự thảo Nghị định cần tiếp cận theo hướng thừa nhận phương thức kiểm soát chi phối tài sản bảo đảm được áp dụng đối với tài khoản tiền gửi, chứng khoán, quyền được thanh toán trên cơ sở thư tín dụng. Cụ thể, 14 Vụ Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Vướng mắc trong thực tiễn hoạt động ngân hàng cần hướng dẫn trong nghị định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề Xây dựng Nghị định của Chính phủ về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, 2020, tr.72. 15 Cách giải thích này là phù hợp, đồng bộ với quy định tại Điều 346 BLDS 2015 và quy định tương ứng tại khoản 10 Điều 3, khoản 1 Điều 48 Dự thảo Nghị định. 16 Xét từ góc độ hệ thống chế định, có thể sẽ có lập luận cho rằng, BLDS 2015 thực tế đã dự liệu trường hợp bên thứ ba giữ tài sản bảo đảm nhưng đã chỉ cho phép điều đó trong trường hợp thế chấp tài sản (khoản 2 Điều 317 BLDS 2015). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, thế chấp và cầm cố đưa ra hai quy chế pháp lý hoàn toàn riêng biệt liên quan quyền và nghĩa vụ quản lý tài sản, chịu rủi ro Đặc biệt, khái niệm “nắm giữ” trong cầm cố được sử dụng với chức năng “công khai hoá” quyền của bên cầm cố và qua đó xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba, trong khi đó, muốn đối kháng với người thứ ba, bên nhận thế chấp cần phải đăng ký thế chấp (khoản 2 Điều 319 BLDS 2015). 17 Điều 26 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL. Số 21 (421) - T11/202038 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT tham khảo kinh nghiệm của Luật mẫu của UNCITRAL, Dự thảo Nghị định cần quy định quyền lợi bảo đảm đối với tài khoản tiền gửi ngân hàng phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba nếu bên nhận bảo đảm kiểm soát, chi phối tài khoản tiền gửi đó theo một trong ba cách: (1) Bên nhận bảo đảm chính là ngân hàng nơi mở tài khoản; (2) Bên nhận bảo đảm, bên bảo đảm và ngân hàng nơi mở tài khoản ký kết thỏa thuận trong đó ngân hàng đồng ý tuân theo chỉ dẫn của bên nhận bảo đảm về việc trích nợ từ tài khoản mà không cần có sự đồng ý của bên bảo đảm; hoặc (3) Bên nhận bảo đảm đứng tên chủ tài khoản đó18. Đồng thời, cần bổ sung quy định đặc thù về thứ tự ưu tiên giữa bên nhận bảo đảm kiểm soát, chi phối tài khoản ngân hàng và bên nhận bảo đảm đã đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo thông lệ quốc tế, bên nhận bảo đảm đang kiểm soát, chi phối tài khoản ngân hàng có thứ tự ưu tiên cao hơn, kể cả trong trường hợp bên nhận bảo đảm còn lại đã đăng ký trước. Thứ ba, Điều 24 Dự thảo Nghị định quy định rất nhiều phương thức khác nhau để xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba, vượt ra ngoài phạm vi Điều 297 BLDS 2015. Bên cạnh phương thức đăng ký và nắm giữ/chiếm giữ tài sản bảo đảm, còn có các phương thức khác như bên nhận thế chấp nắm giữ giấy chứng nhận về tài sản thế chấp, bên nhận bảo đảm thực hiện hành vi công khai quyền của mình bằng cách thông báo, niêm yết trên trang thông tin điện tử, trụ sở hoặc hành vi công khai khác phù hợp với quy định của pháp luật. Điều này sẽ dẫn đến rủi ro và tăng chi phí cho bên nhận bảo đảm vì phải tra cứu quá nhiều nguồn thông tin để xác định tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, thay vì chỉ cần tra cứu tập trung tại cơ sở dữ liệu của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Hơn nữa, Dự thảo Nghị định đưa ra nhiều phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba nhưng không làm rõ thứ tự ưu tiên giữa các bên nhận bảo đảm thực hiện công khai hóa bằng các phương thức này, có thể sẽ dẫn đến tranh chấp về thứ tự ưu tiên và khó khăn, vướng mắc cho tòa án trong việc giải quyết. 3.2. Cầm giữ tài sản Bên cạnh các biện pháp bảo đảm được hình thành trên cơ sở thoả thuận, BLDS 2015 lần đầu tiên quy định cầm giữ tài sản như là một biện pháp bảo đảm pháp định trong Mục Biện pháp bảo đảm (từ Điều 346 đến Điều 350). Trên tinh thần đó, Dự thảo Nghị định đã hướng dẫn chi tiết các vấn đề liên quan đến cầm giữ tài sản như về thời điểm biện pháp cầm giữ phát sinh hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba, về bảo đảm quyền cầm giữ và thực hiện quyền cầm giữ19. Mặc dù các quy định này đã góp phần nhận diện rõ cấu trúc pháp lý của quyền cầm giữ, nhưng những quy định này chưa xử lý hiệu quả và thuyết phục vấn đề thực tiễn đặt ra là xác định rõ thứ tự ưu tiên thanh toán giữa bên cầm giữ tài sản và bên nhận thế chấp đã xác lập và đăng ký thế chấp trước khi phát sinh quyền cầm giữ. Tương tự như vấn đề bảo lưu quyền sở hữu, nếu không có quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề này, có thể có lập luận rằng, cần áp dụng quy định chung của Điều 308 BLDS 2015, theo đó bên nhận thế chấp sẽ có ưu thế khi đã đăng 18 Điều 25 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL. Bên cạnh 3 phương thức đăng ký, nắm giữ và chiếm giữ nêu trên, Quyển 9 UCC và Luật mẫu của UNCITRAL đều quy định quyền lợi bảo đảm đối với tài sản phái sinh tự động có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba kể từ thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản ban đầu, nếu tài sản phái sinh có thể xác định được. Dự thảo Nghị định nên được bổ sung quy định này nếu ghi nhận tài sản phái sinh từ tài sản bảo đảm để thuận lợi cho việc xác định thứ tự ưu tiên liên quan đến tài sản phái sinh. 19 Xem Điều 48, 49, 50 Dự thảo Nghị định và các quy định khác có liên quan tại khoản 10 Điều 3, Điều 14 Điều 15 Dự thảo Nghị định. 39Số 21 (421) - T11/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT ký trước. Giải quyết vấn đề trên, khoản 2 Điều 48 Dự thảo Nghị định đã kế thừa cách tiếp cận của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm (được sửa đổi bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP), bảo vệ quyền lợi bên cầm giữ bằng cách quy định chỉ yêu cầu bên cầm giữ giao tài sản đang cầm giữ cho bên nhận thế chấp nếu bên nhận thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ đã hoàn thành nghĩa vụ đối với bên cầm giữ. Trên thực tế, cách tiếp cận này không trực tiếp xác định rõ phạm vi, điều kiện áp dụng thứ tự ưu tiên giữa các bên và tạo ra lo ngại cho bên nhận thế chấp (chủ yếu là các tổ chức tín dụng) về khả năng lạm dụng quy định này của bên cầm giữ tài sản. Tham khảo thông lệ quốc tế, Dự thảo Nghị định có thể xây dựng quy phạm trực tiếp quy định bên cầm giữ được ưu tiên thanh toán ngay cả so với bên nhận thế chấp đã xác lập và đăng ký thế chấp trước nếu thỏa mãn các điều kiện sau đây: (i) Bên cầm giữ cung cấp dịch vụ liên quan đến tài sản thế chấp (ví dụ: sửa chữa, bảo dưỡng, nâng cấp, chăm sóc tài sản đó) trong hoạt động thương mại bình thường (mang tính chuyên nghiệp), (ii) Việc cầm giữ tài sản nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán dịch vụ mà bên cầm giữ đã cung cấp, (iii) Tài sản thế chấp là đối tượng của dịch vụ được cung cấp bởi bên cầm giữ20. 3.3. Bảo lãnh Điều 44 Dự thảo Nghị định đã cố gắng tách bạch giữa các trường hợp bảo đảm đối vật bằng tài sản của bên thứ ba và bảo đảm đối nhân (bảo lãnh), nhưng cách diễn đạt chưa rõ ràng, dễ dẫn đến sự nhầm lẫn khi áp dụng quy định này trong thực tế. Tên gọi của điều luật này cần được sửa thành “Thỏa thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác”; trong đó, cần quy định 3 trường hợp với hậu quả pháp lý tương ứng với từng trường hợp: - Trường hợp bên thứ ba dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho người khác nhưng không có cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, giữa bên thứ ba và bên nhận bảo đảm phát sinh biện pháp cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược hoặc ký quỹ. Khi tài sản bảo đảm của bên thứ ba bị xử lý, nhưng chưa đủ để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm, thì bên nhận bảo đảm không có quyền yêu cầu bên thứ ba thực hiện phần nghĩa vụ còn thiếu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. - Trường hợp bên thứ ba cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho người khác thì giữa bên thứ ba và bên nhận bảo đảm phát sinh quan hệ bảo lãnh theo quy định từ Điều 335 đến Điều 343 BLDS 2015 và quy định tại tiểu mục này. - Trường hợp bên bảo lãnh thỏa thuận với bên nhận bảo lãnh về việc áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của chính mình, thì giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh phát sinh đồng thời quan hệ bảo lãnh và quan hệ cầm cố, thế chấp, đặc cọc, ký cược hoặc ký quỹ. Trường hợp tài sản bảo đảm của bên bảo lãnh bị xử lý, nhưng chưa đủ để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện phần nghĩa vụ còn thiếu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 4. Xử lý tài sản bảo đảm 4.1. Quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý trong trường hợp các bên có thoả thuận Tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các bên, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế khuyến khích cơ chế thông thoáng, thuận lợi cho bên nhận bảo đảm tự mình thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm mà không phải khởi kiện ra tòa án, Dự thảo Nghị định cần quy định minh thị về cơ chế tự thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý một cách linh hoạt, thuận tiện 20 Điều 9-333(b) U.C.C. Số 21 (421) - T11/202040 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT hơn, trao quyền chủ động lớn hơn cho bên nhận bảo đảm. Cụ thể, Dự thảo Nghị định cần cho phép bên nhận bảo đảm có quyền tự mình thu giữ tài sản thế chấp là động sản để xử lý, thậm chí có thể không cần thông báo trước về thời gian, địa điểm, phương thức thu giữ nếu như các bên đã có thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tránh việc động sản bị tẩu tán; không cần phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản về việc thu giữ bởi động sản có thể có ở nhiều nơi và có thể tồn tại dưới hình thức tài sản vô hình nên việc thông báo này không có ý nghĩa. Khi tự mình thu giữ tài sản bảo đảm là động sản, bên nhận bảo đảm chỉ cần tuân thủ ba điều kiện: (i) Các bên đã có thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm về việc bên nhận bảo đảm được quyền tự mình thu giữ tài sản bảo đảm, (ii) Bên nhận bảo đảm đã thông báo cho bên bảo đảm, bên thứ ba giữ tài sản bảo đảm về việc vi phạm nghĩa vụ dẫn đến quyền xử lý tài sản bảo đảm và về việc bên nhận bảo đảm sẽ tiến hành thu giữ tài sản (nhưng không cần ghi rõ thời gian, địa điểm, phương thức thu giữ), và (iii) Tại thời điểm thu giữ, bên bảo đảm, bên thứ ba giữ tài sản bảo đảm không chống đối21. Điều đó có nghĩa là nếu bên bảo đảm, bên thứ ba đã nhận được thông báo, nhưng không có mặt tại địa điểm có tài sản để thể hiện sự chống đối, hoặc đã bỏ đi khỏi nơi có tài sản từ lâu, thì bên nhận bảo đảm vẫn có quyền tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. 4.2. Phương thức bên nhận bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm hoặc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ Một trong điểm tiến bộ của BLDS 2015 về xử lý tài sản bảo đảm là đã thiết kế những quy định chung ghi nhận bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thoả thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau: (a) Bán đấu giá tài sản, (b) Bên nhận tài sản tự bán tài sản, (c) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ, (d) Các phương thức khác. Tuy nhiên, BLDS 2015 chưa quy định bên nhận bảo đảm phải tuân thủ các nghĩa vụ gì khi tự mình bán tài sản bảo đảm để tránh tình trạng giá bán quá thấp, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bảo đảm. BLDS chỉ có một điều quy định về nghĩa vụ thông báo của bên nhận bảo đảm về việc xử lý tài sản bảo đảm (Điều 300) và một điều quy định về định giá tài sản bảo đảm (Điều 306), trong đó yêu cầu “việc định giá tài sản bảo đảm phải bảo đảm khách quan, phù hợp với giá thị trường”, nhưng quy định này chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể để tòa án xem xét liệu việc xử lý tài sản bảo đảm có tuân thủ đúng các nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật, bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên bảo đảm hay không. Việc đánh giá tính đúng đắn, hợp pháp trong xử lý tài sản bảo đảm có ý nghĩa quan trọng để tòa án quyết định rằng bên có nghĩa vụ phải thanh toán khoản nợ còn thiếu cho bên nhận bảo đảm hay không nếu sau khi xử lý tài sản bảo đảm, số tiền thu được vẫn chưa đủ để thanh toán toàn bộ các nghĩa vụ. Theo thông lệ quốc tế, trong quá trình bán tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải tuân thủ nguyên tắc “thiện chí” “”(good faith) và “đảm bảo tính hợp lý về thương mại” (commercially reasonable)22. “Thiện chí” thể hiện ở việc thông báo trong thời hạn hợp lý cho bên bảo đảm và các bên liên quan về xử lý tài sản bảo đảm, tạo điều kiện cho bên bảo đảm nhận lại tài sản bảo đảm khi thỏa mãn các điều kiện luật định, tôn trọng thỏa thuận của các bên Tuy nhiên, thiện chí không có nghĩa là bên nhận bảo đảm phải được sự nhất trí, hợp tác của bên bảo đảm mọi vấn đề (phương thức xử lý tài sản, giá 21 Điều 77 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL. 22 Điều 9-610 U.C.C., Điều 4 Luật mẫu về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL. Xem tiếp trang 49)
File đính kèm:
- hoan_thien_du_thao_nghi_dinh_ve_bao_dam_thuc_hien_nghia_vu.pdf