Giáo trình Quản lý di sản văn hoá
1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA DI SẢN VĂN HOÁ
1.1. Khái niệm về di sản văn hóa
Khái niệm di sản văn hoá có thể xác định được một cách thuận lợi từ khái niệm
về văn hoá. Như ta đã biết, văn hoá đã được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Nhưng xu hướng định nghĩa văn hoá theo tính giá trị và tính đặc trưng cho công đồng
chủ thể sáng tạo đang được nhiều người chấp nhận nhất. Theo cách định nghĩa này thì:
Văn hoá là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần đặc trưng nhất cho bản sắc
của công đồng người, do cộng đồng con người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình
hoạt động thực tiễn và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế khác. Tính chất lưu
truyền đã biến văn hoá của thế hệ trước trở thành di sản văn hoá của thế hệ sau. Vì vậy,
di sản văn hoá chính là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do một cộng đồng
người sáng tạo và tích luỹ trong một quá trình lịch sử lâu dài và được lưu truyền từ
thế hệ trước cho thế hệ sau. Nó là bộ phận quan trọng nhất, tầng trầm tích dày nhất đã
được thời gian thẩm định của một nền văn hoá cụ thể.
Bất cứ dân tộc nào cũng có một di sản văn hoá riêng, đặc trưng cho bản sắc
của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam cũng vậy. Điều 1 Luật Di sản văn hoá của Việt Nam
nêu rõ định nghĩa về di sản văn hoá của Việt Nam như sau: “Di sản văn hoá bao gồm
di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất
có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác
ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Theo cách tiếp cận giá trị văn hoá này, ta thấy di sản văn hoá bao gồm hầu
hết các giá trị văn hoá do thiên nhiên và con người tạo nên trong quá khứ. Nó là phần
tinh tuý nhất, tiêu biểu nhất đọng lại sau hàng loạt hoạt động sáng tạo của con người từ
đời này qua đời khác. Di sản văn hoá là những giá trị văn hoá đặc biệt bền vững vì nó
4phải được thẩm định một cách khắt khe bằng sự thừa nhận của cả cộng đồng người
trong một thời gian lịch sử lâu dài, đó chính là tính chất đặc thù của di sản văn hóa,
phân biệt với khái niệm văn hóa nói chung. Bởi vậy, có thể nói di sản văn hoá là bộ
phận quan trọng nhất, cơ bản nhất của nền văn hoá nếu không muốn nói là tất cả.
Những hoạt động văn hoá đương đại trong chừng mực nào đó chỉ mới là biểu hiện của
văn hoá, một phần có thể được coi là hoạt động sáng tạo mà kết quả của nó chưa thể
khẳng định ngay là sản phẩm tiêu biểu, tinh tuý của văn hoá dân tộc, vì còn thiếu một
yếu tố cơ bản là sự thẩm định của thời gian. Xét về mặt triết học thì quan hệ giữa văn
hóa và di sản văn hóa là quan hệ của phạm trù cái chung và cái riêng. Văn hóa là cái
chung, di sản văn hóa là cái riêng. Mọi yếu tố của di sản văn hóa đều là văn hóa,
nhưng không phải mọi yếu tố của văn hóa đều là di sản văn hóa, vì trong văn hóa còn
nhiều yếu tố bị mai một trong dòng chảy lịch sử, do không vượt qua đuợc thử thách
của thời gian nên không được lưu truyền lại cho thế hệ sau thành di sản văn hóa, hoặc
những yếu tố văn hóa mới được hình thành chưa được thẩm định của thời gian.
Di sản văn hoá là bộ phận trọng yếu của nền văn hoá dân tộc. Nó là sự tổng
hòa của một tập hợp những cặp phạm trù vừa thống nhất, vừa tương phản: truyền
thống - hiện đại, thừa kế - phát triển, dân tộc - quốc tế. Những cặp phạm trù này vận
động một cách hài hoà với nhau, xoắn luyến vào nhau không hề tách rời.
Trong mối quan hệ với cặp phạm trù thứ nhất, di sản văn hoá chính là cái
hiện đại được truyền lại từ trong quá khứ. Trong lát cắt đồng đại của văn hoá bao giờ
ta cũng thấy những giá trị văn hoá truyền thống và những giá trị văn hoá mới hình
thành. Nếu tưởng tượng văn hoá dân tộc như một dòng sông chảy từ quá khứ tới tương
lai, dòng sông đó luôn luôn có một bên lở và một bên bồi, thì bên lở là các giá trị văn
hoá đã lỗi thời, không phù hợp với hiện đại nên đã bị đào thải đi theo dòng chảy lịch
sử; Bên bồi là những giá trị văn hoá mới được hình thành do nhu cầu mới. Dòng chảy
ở giữa là truyền thống văn hoá, là dòng chảy chính, là những giá trị văn hoá được lưu
truyền từ quá khứ đến hiện tại và có thể cả tương lai. Với ý nghĩa này, di sản văn hoá
đóng vai trò như một mã di truyền xã hội, một ký ức tập thể cho phép sự tái sinh, sự
nhớ lại về quá khứ trên trục thời gian làm nên tính liền mạch của nền văn hoá dân tộc.
Di sản văn hóa được hình dung như là hiện thân của thang giá trị hay hệ thống các giá
trị, những nhân tố hình thành nên bản sắc văn hoá của một dân tộc. Bản sắc ở đây vừa
như bộ gien di truyền xã hội, vừa là nền tảng cho phép nền văn hóa đó tự sinh sôi nảy
nở và tự biến hoá trên cơ sở của chính mình.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Quản lý di sản văn hoá
c phẩm hiện đại thì việc đầu tiên tác giả phải là những người yêu thích, say mê giá tị di sản văn hóa đó. Muốn yêu thích, say mê trước tiên phải hiểu, phải thấy được cái hay, cái đẹp của di sản này. Vì thế tiền đề của biện pháp này phải là các biện pháp giáo dục các thế hệ trẻ về di sản văn hóa dân tộc. Múa Ấn Độ, kịch Nô của Nhật bản thật hay những cũng thật khó học. Thế những nguwoif Ấn Độ nào cũng biết múa, Kịch Nô Nhật Bản là một tài sản quan trong để tái sản xuất. Đố là vì các nước này có một chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc qua con đường giáo dục. Ở Ấn Độ tiểu học và trung học cơ sở học sinh phải học múa như một môn học chính, như toán, như ngữ văn vậy. Lên bậc trung học phổ thông và đại học múa là một môn tự chọn. Chính vì thế mà nghệ thuật hình thể đầy tính biểu cảm của ngôn ngữ hình thể này soosngs mãi trong đời sống hiện đại. Tuy nhiên bức tranh nghệ thuật cổ truyền của chúng ta lại không tươi sáng như vây. Có đến 90% thanh niên không biết gì về tuồng, chèo, cải lương, quan họ. Số còn lại có biết, có yêu nhưng không thể hát hay diễn được. Chỉ một số tác giả chuyên nghiệp yêu thích vì hiểu rõ cái đẹp của các loại hình nghệ thuật này. Vì thế để có thể chuyển các giá trị văn hóa truyền thóng vào các tác phẩm hiện đại cần phải có một chính sách cụ thể để đưa cac sloaij hình nghệ thuật này vào chương trình giáo dục. 3.3. Thiết kế các tour du lịch với việc sử dụng các giá trị di sản văn hóa Di sản văn hóa là nguồn tài nguyên nhân văn không bao giờ cạn kiệt, trái lại còn có giá trị khai thác ngày càng tăng, bởi cùng với thời gian những di tích lịch sử văn hóa ngày càng trở nên cổ kính hơn, các di sản văn hóa phi vật thể ngày trở nên hiếm hoi hơn, đó là những tiêu chí để giá trị của chúng tăng lên gấp bội, bên cạnh đó, việc khai thác các giá trị văn hóa này càng hiệu quả hơn nếu như chúng được tuyên truyền sâu rộng và quảng bá nhiều hơn. Một trong những kênh truyền bá các giá trị di sản văn hóa quan trọng chính là truyền bá qua các tour du lịch. Khác với các kênh 193 thông tin có khả năng tuyên truyền và quảng bá các giá trị văn hóa khác, tuyên truyền, quảng bá bằng dịch vụ du lịch sẽ cho công chúng xem tận mắt, sờ tận tay, thưởng thức trực tiếp những giá trị văn hóa, vì thế, chúng có sức lan toả và gây ấn tượng sâu sắc nhất. Trong những năm qua, di sản văn hóa đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các Tour du lịch. Các địa phương như Lào Cai, Quảng Nam, Huế, Quảng Ninh đã tích cực đua những tài nguyên nhân văn vào các tour du lịch. Bên cạnh việc tổ chức du lịch sinh thái để thưởng thức những cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời của điạ phương, còn có du lịch tâm linh, du lịch văn hóa để thưởng thức các giá trị văn hóa vật thể của các khu di tích lịch sử văn hóa, các giá trị tinh thần, tham dự vào các lễ hội dân gian truyền thống. Hàng năm khu du lịch Sapa đã thu hút hàng chục ngàn lượt người tới tham quan, nghỉ ngơi và thưởng thức các sản vật của địa phương. Thổ cẩm, các phong tục truyền thống, các loại cây thuốc, các phương thuốc bí truyền, các món ăn dân tộc đã được hồi sinh và ngày càng phát triển cùng với những tour du lịch hàng năm. Khai thác giá trị của di sản văn hóa trong các tour du lịch rõ ràng đã mang lại một nguồn lực kinh tế đáng kể, chính vì vậy mà trong cơ chế thị trường hiện nay đã xuất hiện nhiều bảo tàng tư nhân với mục đích thu hút khách du lịch. Một trong các bảo tàng đó có thể kể đến là “Việt Phủ Thành Chương”. Đây là một bảo tàng tư nhân trưng bày, giới thiệu nhiều di sản vật thể quý giá là các đồ gốm sứ cổ, nhưng có lẽ quý giá hơn cả, bảo tàng với nghệ thuật sắp đặt khéo léo đã tái tạo lại một không gian sống đặc trưng của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Một lối sống vừa mộc mạc, đơn sơ, vừa hài hòa với thiên nhiên vừa thấm đẫm chất tâm linh của một dân tộc thờ đa thần. Những vật dung đơn sơ mà người dân hàng ngày vẫn dùng trong cuộc sống bình dị nơi làng quê của mình, giờ đây dưới bàn tay tài hoa của một họa sỹ say mê văn hóa dân tộc đã thoắt trở nên sang trọng, lung linh, vừa thực vừa ảo đầy sức hút. Một du khách nước ngoài đã thán phục thốt lên: “Ông (Họa sỹ Thành Chương) đã biến hiện thực thành giấc mơ”. Phủ Việt Thành Chương được coi là một trong những điểm đến quan trọng của du khách trong và ngoài nước nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Một ví dụ khác cho thấy di sản văn hóa chính là nguồn lực tạo ra các giá trị kinh tế, bên cạnh các giá trị xã hội đó là “Bảo tàng không gian văn hóa Mường” của họa sỹ Nguyễn Đức Hiếu. Với một quả đồi nhiều cây cối, nằm trong một thung lũng đá vôi, róc rách một dòng suối nhỏ, một không gian đặc thù của Văn hóa Mường, người họa sỹ trẻ, say mê vẻ đẹp của văn hóa Mường đã biến nới đầy thành một bảo tàng khá đặc sắc. Khách tham quan sẽ thấy ở đây một xã hội Mường thu nhỏ với đủ bốn giai tầng và những nếp sinh hoạt tương ứng của họ thông qua bốn kiểu nhà sàn. Một vườn cây thuốc đặc biệt và một nhà tưng bày nhỏ những vật dụng hàng ngày của 194 người Mường đã cho ta thấy rõ nét nếp sinh hoạt và lao động sản xuất của họ. Những cọn nước quay trên đường vào bảo tàng, một cái sân chơi cộng đồng nho nhỏ, một gian hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ của chính những người Mường tạo ra đã thu hút khách tham quan và đưa họ vào một không gian văn hóa riêng biệt: bình lặng, giản dị và đầy bản sắc. Nhìn chung, di sản văn hóa là linh hồn của nhiều tour du lịch nhân văn, là chất men say để thu hút và giữ chân các du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài. 4. YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA 4.1 Yêu cầu - Cán bộ quản lý di sản văn hóa phải được trang bị đầy đủ các kiến thức về quản lý nhà nước về văn hóa, hiểu biết sâu sắc về lịch sử văn hóa Việt Nam, am hiểu sâu một trong những ngành liên quan đến di sản như văn chương, kiến trúc, văn hóa dân gian, ... - Phải có lòng say mê tìm hiểu, nghiên cứu, trân trọng di sản văn hóa dân tộc. Phải luôn tâm huyết với việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc; - Phải được trau dồi kỹ năng về quản lý và bảo tồn di sản như kỹ năng khảo sát, kiểm kê, kỹ năng lập hồ sơ khoa học, kỹ năng khai thác giá trị di sản cho mục đích phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. - Phải thành thạo các kỹ năng soạn thảo văn bản, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến quản lý và phát huy giá trị của di sản như: tổ chức các cuộc nói chuyện chuyên đề, tổ chức các cuộc tham quan, tư vấn thiết kế các tour du lịch có sử dụng các giá trị của di sản văn hóa của địa phương. - Phải sử dụng thành thạo các trang thiết bị thông dụng như máy ảnh, máy quay, máy tính để phục vụ cho công việc; 4.2 Nhiệm vụ - Nghiên cứu tìm hiểu sâu sắc những văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quản lý văn hóa nói chung và quản lý di sản nói riêng, cụ thể: - Luật di sản - Pháp lệnh bảo vệ và phát huy di tích lịch sử văn hóa - Pháp lệnh bảo tàng - Pháp lệnh du lịch Và nhiều văn bản có liên quan khác; Tư vấn cho các cơ quan quản lý những điều còn chưa hợp lý trong các văn bản quản lý của nhà nước về di sản; - Tuyên truyền những kiến thức về pháp luật quản lý di sản, tuyên truyền những giá trị quan trọng của di sản có trên địa bàn quản lý để nâng cao ý thức của mỗi người dân, lòng tự hào về quê hương của họ để mỗi người dân thực sự là một chủ nhân của những di sản văn hóa trên quê hương mình; 195 - Nghiên cứu và tham gia các cuộc khảo sát kiểm kê di sản văn hóa tại điạ phương: Người cán bộ làm công tác quản lý di sản văn hóa phải nắm thật vững số lượng và hiện trạng của những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của địa phương mình. - Trực tiếp tham gia vào lập hồ sơ khoa học của các di sản văn hóa trong địa bàn để theo dõi, quản lý các di sản đó; Phải lập danh mục hoặc sổ đăng ký các di sản văn hóa có trên điạ bàn mình quản lý theo đúng quy định; - Trực tiếp nghiên cứu và đề nghị cấp quản lý có thẩm quyền cho lập hồ sơ thẩm định để công nhận di tích lịch sử, di sản văn hóa quan trọng của địa phương và trực tiếp tham gia vào việc lập hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử, di sản văn hóa cấp tỉnh và cấp quốc gia. - Cùng với ban quản lý di tích lịch sử văn hóa của các di tích lịch sử văn hóa cụ thể xây dựng các quy chế, nội quy quản lý và sử dụng di tích; TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể ở Thăng Long - Hà Nội / B.s.: Võ Quang Trọng (ch.b.), Đinh Hồng Hải, Kiều Thu Hoạch.... - H. : Nxb. Hà Nội, 2010. - 296tr. ; 24cm. - (Tủ sách Thăng Long 1000 năm) 2. Đào Duy Anh. Việt - Nam Văn - hoá sử - cương / Đào Duy Anh. - Huế : Knxb, 1938. - 244tr ; 24cm. - (Quan Hải tùng thư) 3. Đạo luật gìn giữ và sử dụng di tích, di vật lịch sử ở Liên Xô. – Công bố năm 1976. Bản dịch lưu tại Cục di sản văn hóa. 4. Đặng Văn Bài. Góp phần xây dựng cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam : Báo cáo chuyên đề. – H, 2003. - (Đề tài khoa học: Cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam) 5. Đặng Văn Bài. Tiếp cận thực trạng công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích theo tinh thần luật di sản văn hóa // Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội khóa XI, 2003. – tr. 135-149 6. Đặng Văn Tu. Một số vấn đề phân cấp quản lý di tích ở Hà Tây// Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội khóa XI, 2003. – tr291-301 196 7. Giáo trình quản lý di sản văn hoá với phát triển du lịch : Giáo trình dành cho sinh viên đại học và cao đẳng các trường văn hoá - nghệ thuật / Lê Hồng Lý (ch.b.), Dương Văn Sáu, Đặng Hoài Thu. - H. : Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. - 150tr. : bảng ; 24cm 8. Hệ thống các biểu mẫu, bản thống kê, họ chiếu, phiếu.. trong các khâu nghiệp vụ bảo tồn di tích / Vụ Bảo tồn bảo tàng. – H., 2006 9. Hiến chương Venize – Italia về quy định các di tích lịch sử văn hóa công bố năm 1964. – bản dịch lưu tại Cục di sản văn hóa. 10. Hoàng Vinh. Bàn về cơ chế, chính sách bảo vệ và phá huy di sản văn hóa dân tộc : Báo cáo chuyên đề. – H, 2003. - (Đề tài khoa học: Cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam) 11. Hoàng Vinh. Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hoá dân tộc / Hoàng Vinh. - H. : Chính trị quốc gia, 1997. - 145tr ; 19cm+1 sơ đồ 12. Kiến trúc cố đô Huế / Phan Thuận An. - In lần thứ 8. - Huế : Nxb. Thuận Hoá, 1998. - 193tr ; 19cm 13. Nguyễn Đăng Duy. Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa : Giáo trình / Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức. – H. : Đại học văn hóa Hà Nội, 1993 14. Nguyễn Hoàng Long. Bảo vệ và phát huy Di sản văn hóa trong quá trình đô tị hóa từ thực tế cuả Thành phố Đà Nẵng // Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội khóa XI, 2003. – tr 281-291 15. Nguyễn Quốc Hùng. Thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị các thể khối kiến trúc – bất động sản và danh lam thắng cảnh ở nước ta hiện nay : Báo cáo chuyên đề. – H, 2003. - (Đề tài khoa học: Cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam) 16. Nguyễn Viết Chức. Bảo vệ và phát huy di sản văn vì phát triển bền vững // Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội khóa XI, 2003. – tr. 25-43 17. Nguyễn Xuân Kính. Nghệ nhân dân gian // Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội khóa XI, 2003. – tr. 69-91 18. Phạm Duy Khuê. Thực trạng xây dựng và thưucj hiện cơ chế, chính sách bảo vệ, phá huy di sản văn hóa ở Việt Nam : Báo cáo chuyên đề. – H, 2003. - (Đề tài khoa học: Cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam) 197 19. Phạm Quang Nghị. Di sản văn hóa, nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ, xây dựng tổ quốc và phát triển đất nước // Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội khóa XI, 2003. – tr. 15-25 20. Phan Đăng Nhật. Bảo vệ và phát huy kho tàng tri thức dân gian các dân tộc : Báo cáo chuyên đề. – H., 2003. – (Đề tài khoa học: Cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam) 21. Phan Đăng Nhật. Nhận thức lại giá trị văn hóa kiến thức truyền thống các dân tộc thiểu số // Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội khóa XI, 2003. – tr. 91-111 22. Phan Hồng Giang. Thực trạng phá huy di sản văn hóa phi vật thể: Báo cáo chuyên đề. – H, 2003. - (Đề tài khoa học: Cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam) 23. Phan Khanh. Định hướng và giải pháp kiện toàn, thực hiện cơ chế, chính sách bảo vệ, phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam: Báo cáo chuyên đề. – H, 2003. - (Đề tài khoa học: Cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam) 24. Tìm hiểu đặc trưng di sản văn hoá, văn nghệ dân gian Nam trung bộ / Lê Kim Anh, Phạm Văn Cường, Trần Quốc Vượng... - H. : Khoa học xã hội, 2005. - 427tr. ; 21cm 25. Tô Ngọc Thanh. Vấn đề di sản văn hóa trong cơ chế thị trường // Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, tr. 213-227 26. Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hoá Việt Nam / Trần Ngọc Thêm. - Tái bản lần thứ 2. - H. : Giáo dục, 1999. - 334tr : ảnh, tranh vẽ ; 21cm. - (Chương trình giáo trình đại học) 27. Trần Văn Bính. Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước // Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước : Kỷ yếu hội thảo khoa học. – H. : Ủy ban văn hóa giáo dục và thanh niên, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội khóa XI, 2003. – tr. 43-55 28. Trương Quốc Bình. Thực trạng hoạt động cùng định hướng , giải pháp xây dựng và thực hiện cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam : Báo cáo chuyên đề. – H, 2003. - (Đề tài khoa học: Cơ chế chính sách bảo vệ và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam) 198 29. Việt Nam (CHXHCN). Luật di sản văn hóa năm 2001, sửa đổi , bổ sung năm 2009.- H., 2009 30. Việt Nam (CHXHCN). Pháp lệnh quản lý di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh. – H., 2004 31. Việt Nam (CHXHCN).Sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945 của chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về bảo tồn cổ tích. 32. Các địa chỉ trang WEB: - /) - - - - - - - 199
File đính kèm:
- giao_trinh_quan_ly_di_san_van_hoa.pdf