Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1)

 Vai trò của lập luận

Lập luận là một hoạt động có mục đích: người đưa ra

lập luận luôn nhắm đến việc mong muốn thuyết phục người

nghe tin tưởng vào một điều gì đó hoặc hành động theo cách

nào đó.

Lập luận có vai trò quan trọng trong giao tiếp ngôn ngữ,

diễn ra ở mọi nơi và ở mọi lĩnh vực, là công cụ để đạt được

mục tiêu truyền tải thông điệp với hiệu quả cao nhất: giúp các

đối tượng giao tiếp thấu hiểu lẫn nhau, tránh những thông tin

sai lệch hoặc cách hiểu sai lệch, giúp khẳng định những ý

kiến, quan điểm đúng đắn và bác bỏ những ý kiến, quan điểm

sai lầm, giúp thuyết phục, lôi kéo sự đồng tình của người

khác Trình độ lập luận là sự kết hợp hài hòa năng lực nhận

thức, đánh giá, tổng hợp, phân tích, suy luận, phán đoán về

các hiện tượng, sự vật, sự việc diễn ra không ngừng và đa

dạng trong bất cứ lĩnh vực nào của cuộc sống. Do đó, trình độ10

lập luận là thước đo năng lực trí tuệ, năng lực tư duy logic, kỹ

năng ngôn ngữ của mỗi người, là phẩm chất, là thước đo mức

độ trưởng thành của con người.

Với những người hoạt động trong lĩnh vực liên quan

đến Pháp luật, năng lực lập luận là yêu cầu, là đòi hỏi có tính

bắt buộc. Lập luận được sử dụng phổ biến và đòi hỏi chất

lượng cao trong hoạt động tư pháp (với ý nghĩa là hoạt động

của các cơ quan tư pháp: điều tra, truy tố, xét xử nhằm thực

hiện các hoạt động tố tụng do pháp luật quy định và thuộc

trách nhiệm của họ), điển hình là trong các cuộc tranh luận

nhằm chứng minh cho một hoặc nhiều luận điểm cũng như để

phản bác ý kiến sai trái của người khác. Vì vậy, với những

người hoạt động trong lĩnh vực này, sử dụng tinh thông và

nhuần nhuyễn kỹ năng lập luận là điều kiện tối cần thiết, có

ảnh hưởng quyết định đến thành công hay thất bại của công

việc hàng ngày và cả sự nghiệp. Có thể nói, bất cứ hoạt động

nào trong lĩnh vực liên quan đến luật pháp cũng luôn đòi hỏi

kỹ năng lập luận để chứng minh/bác bỏ, khẳng định/phủ định.

Đặc biệt, một luật sư không chỉ cần có kiến thức pháp luật uyên

thâm, tư duy pháp lý vững vàng mà còn cần được trang bị năng

lực lập luận sắc sảo, chặt chẽ, thuyết phục để đủ sức bảo vệ

quyền lợi vật chất, tinh thần và tính mạng của thân chủ.

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 1

Trang 1

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 2

Trang 2

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 3

Trang 3

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 4

Trang 4

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 5

Trang 5

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 6

Trang 6

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 7

Trang 7

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 8

Trang 8

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 9

Trang 9

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 206 trang duykhanh 7500
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1)

Giáo trình Kỹ năng lập luận và tranh luận (Phần 1)
 
nào? Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy bị cáo Vân mắc bệnh 
gọi là “Nhân cách bệnh”. Theo tài liệu y học thì bệnh này là 
“một thể bệnh tâm thần cùng với các bệnh loạn thần kinh 
khác được xếp vào các bệnh gọi là “Tâm thần nhỏ học” hoặc 
“Tâm thần học ranh giới”. Bệnh này được biểu hiện trong 4 
trạng thái gọi là bốn thể khác nhau, đó là: thể hưng phấn, thể 
ức chế, thể suy nhược và thể Hit-tê-ri-a. Căn bệnh của bị cáo 
theo dự đoán của chúng tôi nó nằm ở thể hưng phấn. Tôi xin 
dẫn ra đây định nghĩa của Y học về thể bệnh này: “Người bị 
mắc bệnh tâm thần theo thể hưng phấn là người thường có 
tính tình cộc cằn dễ bị kích thích, cảm xúc, rất dễ nổi cơn 
giận dữ. Trong trạng thái này người bệnh phát sinh những 
bản tính độc ác, mãnh liệt, không thích hợp chỉ vì những lý do 
rất nhỏ nhặt, lúc này người bệnh không chỉ quát tháo, chửi 
mắng thậm tệ và sỉ nhục mọi điều với những người xung 
quanh mà còn chuyển ngay sang hành động tấn công như 
quăng lọ mực, vung ghế, đâm chém Sau cơn bệnh người bệnh 
có thể đánh giá được chuyện mình làm, vô cùng khổ sở vì 
hành vi của mình. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau thì lại có cơn 
bùng nổ khác và những lý do mới cũng không có gì đáng kể”. 
 Những điều trên đây là do tôi trích dẫn từ trang 258 của 
cuốn sách Tâm thần học mà tác giả là 4 nhà tâm thần học nổi 
tiếng của Liên Xô là Kếch-cốp, Coot-kina, Nal-gia-nốp và 
 185 
Nhe-giơ-nhép ky do Nhà xuất bản Y học của ta dịch và xuất 
bản năm 1975. 
 Kính thưa HĐXX! 
 Đối chiếu với các hành vi của bị cáo tôi thấy nó giống y 
chang những điều mà tôi vừa dẫn ở sách trên. Từ những suy 
nghĩ đó tôi có nhận định rất có thể bị cáo Vân trước và trong 
khi gây án đã trải qua một cơn sốc của bệnh tâm thần, căn 
bệnh này nếu không phát sinh sau khi bị cáo té xe, thì nó cũng 
âm ỉ trong cơ thể bị cáo do có sự di truyền mà y học gọi là 
gien. Sỡ dĩ chúng tôi đưa ra điều này là vì trong quá trình 
điều tra chúng tôi được biết trong gia đình bị cáo ở thế hệ 
trước có ít ra là hai người bị bệnh này. Đó là bà cô của bị 
cáo là cô Sáu Hạnh năm nay 71 tuổi (thời trẻ bị khùng mấy 
năm trời) đó là bác thứ tư của bị cáo ông Huỳnh Văn Thọ 
cũng có thời mắc bệnh trên. Sỡ dĩ tôi phải dẫn ra như thế vì 
theo thuyết của Phờ-rớt nhà phân tâm học nổi tiếng người Áo 
thì bệnh tâm thần còn có một nguyên nhân là do di truyền. 
 Kính thưa HĐXX! 
 Như vậy là tôi đã trình bày với HĐXX về nguyên nhân 
thứ nhất khiến bị cáo gây án là do mắc bệnh tâm thần mà 
trong công tác xét xử được coi như là một tình tiết giảm nhẹ 
quan trọng. Đó là chưa nói đến việc miễn truy cứu trách 
nhiệm hình sự cho bị cáo khi mà ngành Pháp y làm rõ căn 
bệnh của bị cáo. 
 Tôi xin trình bày sang nguyên nhân thứ hai. Đó là bị 
cáo bị sự kích động tinh thần quá mạnh từ phía nạn nhân: 
 Kính thưa HĐXX! 
 186 
 Như trên tôi đã trình bày bị cáo mắc bệnh tâm thần 
phân liệt loại nhân cách bệnh, thể hưng phấn. Căn bệnh này 
bình thường như con rắn hổ nằm ngủ mà thôi. Con rắn độc 
ấy chỉ thức dậy khi có sự chọc giận, sự kích động từ phía bên 
ngoài. Vậy sự kích động, chọc giận ở đây là gì. Chẳng cần 
nói thì HĐXX và bà con cũng đã rõ. Đó là những lời nói và 
cử chỉ của bà chủ quán Nguyên. Sự kích động này tôi nghĩ phải 
phân tích cặn kẽ mới thấy hết vai trò của nó. Theo tôi thì nó có 
2 giai đoạn hay nói đúng hơn là có hai ngòi nổ khác nhau. 
 - Ngòi nổ thứ nhất là việc bị cáo không thiếu nợ mà lại 
bị đòi nợ. Thông thường, ở đời mình thiếu nợ người khác bị 
người ta đòi nợ còn buồn, còn tức, huống chi không nợ mà lại 
bị đòi nợ. Đã vậy cái nợ ấy còn bị thiên hạ cho là nợ bê tha 
điếm nhục: nợ tiền nhậu, nợ tiền uống bia ôm, nợ tiền chơi 
gái, những cái nợ này ai mắc vào nói ra cũng xấu hổ - huống 
chi lại bị đến đòi nợ. Đây lại là nợ khống. Không bất bình sao 
được! Không giận dữ sao được! Người thường còn thế huống 
gì người có tiềm ẩn tâm thần. Con rắn hổ trong người bị cáo 
ngóc đầu dậy là vậy. Kính mong HĐXX lưu ý tình tiết tế nhị 
này. Ở đây trong hồ sơ ở bút lục 33,35,39 theo lời khai của 
các nhân chứng khẳng định bị cáo không thiếu tiền, nhân 
chứng tên Tùng có vợ là Loan là người nhà của chủ quán 
nhậu (chị Loan đã chết) cũng khẳng định như thế. 
 - Ngòi nổ thứ hai là những lời lẽ lăng mạ quá đáng của 
bà chủ quán Nguyên. Về việc này để tránh việc bà chủ quán 
có thể sẽ phủ nhận thì tôi đành phải dẫn ra chính lời khai của 
bà trong bút lục số 29. Tại bút lục này bà chủ quán đã thừa 
nhận bà đã chửi Vân rằng: mày uống  sao mà đểu thế”. Tôi 
 187 
không dám nhắc lại mấy chữ thô tục vì khi nói ra sẽ là khiếm 
nhã giảm vẻ trang nghiêm vốn có của phòng xử án. 
 Rồi chẳng riêng gì bà chủ quán, các nhân chứng đều 
chung một ý kiến thừa nhận như thế. Tại bút lục số 41 anh Lê 
Văn Thiệu khai: “Chị Hai Điền dùng lời lẽ thiếu văn hóa để 
nói xấu Vân, nhục mạ Vân khi cơ quan đang trong giờ làm 
việc”, “Khi trở ra chị Hai Điền vẫn đứng ngoài chửi thô tục” 
rồi nào là “Tôi kéo chị Hai Điền về chị không về mà quay lại 
chửi lần hai với lời lẽ thô tục hơn”. Hôm vừa rồi gặp anh 
Thiệu tôi có hỏi chị Hai Điền chửi thô tục là chửi như thế nào? 
Anh cười trả lời: “Nói thế là đủnhắc lại là thêm một lần 
thiếu văn hóa”. Tôi thầm nghĩ nhắc lại câu nói đó cho 
người khác nghe mà người ta còn ngại miệng, huống chi một 
người thần kinh, đã bị đòi nợ khống mà lại còn bị trút lên như 
đạn bắn, như mưa bão, với những lời như thế thử hỏi làm sao 
bị cáo chịu cho nổi? 
 Kính thưa HĐXX! 
 Như vậy ở phần này tôi muốn trình bày rằng bị cáo gây 
án là do bị kích động tinh thần quá mạnh về phía nạn nhân. 
Qua phần lý giải trên có thể đi đến hệ quả sau: rằng chiều 
hôm đó nếu không có chuyện bà chủ quán chuyên đòi nợ 
khống, không có những lời thô tục nặng nề thì dứt khoát vụ 
án sẽ không xảy ra. Song, ở đây cũng có điều cần phải lý giải 
ấy là tại sao bị cáo lại đang tâm nổ súng vào bốn người trong 
lúc chỉ có bà chủ quán mới là người gây nên cơn lốc tâm lý 
cho bị cáo? Như tôi đã phân tích ở trên, những người bị mắc 
bệnh tâm thần thể hưng phấn thì chỉ cần những lý do rất nhỏ 
nhặt họ cũng đã có những phản ứng rất mãnh liệt. Lý do nhỏ 
 188 
nhặt theo tôi là cô Loan đã có nói gì đó làm bị cáo tưởng là 
anh ta bị cản trở công việc, là ở chỗ cô Thuyết vừa là kế toán 
ghi sổ nợ vừa trực tiếp sang đòi tiền bị cáo, là ở chỗ cô 
Quyên, ông Trường có cử chỉ này hoặc lời nói nọ làm cho bị 
cáo trong cơn điên loạn đã hiểu lầm. 
 Kính thưa HĐXX! 
 Như vậy là tôi đã trình bày với HĐXX hai nguyên nhân 
dẫn đến hành vi phạm pháp của bị cáo, rất may mắn là hai 
nguyên nhân này là hai tình tiết giảm nhẹ trong Điều 38 của 
Bộ luật Hình sự, tại khoản b: bị kích động tinh thần; tại 
khoản e: người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế về khả 
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình - 
tức là chứng bệnh tâm thần mà tôi vừa nêu trên. 
 Ngoài hai tình tiết đáng được xem xét giảm nhẹ nêu 
trên, trong vụ án này tôi thấy bị cáo còn có hai tình tiết nữa 
cũng rất đáng được xếp vào các tình tiết giảm nhẹ. Đó là việc 
ngay sau khi gây án xong bị cáo đã xách súng lên đồn công 
an đầu thú. Điều này phù hợp Điều 38 điểm H; Đó là việc bị 
cáo phạm tội lần đầu, trước đó bản thân bị cáo là người tốt, 
là Đảng viên Đảng Cộng sản, là phó trưởng phòng điều 
này được ghi nhận trong khoản D Điều 38. 
 Như vậy là nếu được HĐXX chấp thuận thì ở vụ án này 
bị cáo có tới bốn tình tiết đáng được giảm nhẹ theo Điều 38. 
 Kính thưa HĐXX! 
 Ở đây lại phải nói thêm một tình tiết nữa. Vì nếu không 
phân tích ra lại dễ bị coi là tình tiết tăng nặng: đó là việc bị 
cáo có uống rượu bia trước khi gây án. Cụ thể là trong khi 
 189 
gây án bị cáo có còn ở trong tình trạng say rượu hay không? 
Ở đây rất tiếc là khi bị cáo đầu thú, các cơ quan chức năng 
ngay lúc đó đã không khám nghiệm xem hàm lượng rượu 
trong máu bị cáo có còn hay không? Theo tôi, lúc này bị cáo 
không còn trong cơn say rượu nữa. Vì một là thực tế thời gian 
từ lúc bị cáo uống rượu từ lúc 12 giờ trưa gì đó đến lúc gây 
án đã là 4 tiếng đồng hồ rồi. Đó là thời gian đủ cho người 
uống rượu giã rượu. Hai là lượng rượu bị cáo uống không 
nhiều, đâu như ba người mà có 5 xị. Ba là uống rượu về bị 
cáo vẫn còn trong tình trạng tỉnh táo. Bằng chứng là chị Mai 
giục bị cáo đi ngủ thì bị cáo không ngủ và bảo lên xem anh 
em đánh cờ. Xem đánh cờ mà không đủ tỉnh táo thì làm sao 
ngồi xem nổi. Vả lại, cũng còn điều này nữa, nếu đang ở 
trong tình trạng say rượu thì không bao giờ bị cáo lại tỉnh lại 
nhanh, để dừng tội ác và đi đầu thú ngay như thế được. 
 Kính thưa HĐXX! 
 Nói những điều trên chúng tôi muốn thưa rằng nên loại 
trừ khả năng gây án vì bị say rượu. Song đến đây lại có một 
vấn đề cần đưa ra là giả sử bữa đó trong khi gây án bị cáo 
còn trong tình trạng say rượu thì đây cũng không là tình tiết 
tăng nặng đối với một người bị thần kinh. Theo các tài liệu 
chuyên môn về y học thì việc uống rượu đối với bệnh nhân 
tâm thần lại là một nhu cầu bệnh lý. Bệnh lý này cũng lại 
được pháp luật chiếu cố: “Trạng thái say rượu thông thường 
thì không loại trừ chịu trách nhiệm hình sự nhưng trong trạng 
thái say rượu bệnh lý là một bệnh loạn thần kinh cấp tính 
ngắn hạn thì loại trừ năng lực chịu trách nhiệm”. 
 190 
 Vì vậy vấn đề đặt ra là cần phải xác minh xem bị cáo có 
bị bệnh thần kinh hay không, nếu có thì việc uống rượu của bị 
cáo được xem là tình tiết giảm nhẹ. Song, đây là muốn trình 
bày cho kín nhẽ chớ thực ra tôi vẫn nghĩ rằng khi gây án bị 
cáo không ở trong tình trạng say rượu. 
 Kính thưa HĐXX! 
 Thưa gia đình nạn nhân và các nạn nhân, tôi đã nói quá 
nhiều để bào chữa cho bị cáo. Tôi vô cùng mong ước những 
lời nói trên đây của tôi không làm buồn phiền các nạn nhân 
và gia đình mà hy vọng nó là những lời giải bày, lời phân 
trần, lời an ủi. Nó giống như khi ta đi ra đường có cục đá 
chọi trúng đầu ta, ta sẽ nổi cơn giận cao độ nếu biết đó là 
thằng côn đồ lưu manh. Nhưng ta cũng rất dễ mím môi, nén 
đau khi ai đó nói với ta rằng: “Thằng đó khùng đấy chấp làm 
gì”. Tôi rất mong thấy thái độ đó của HĐXX và gia đình nạn 
nhân và các nạn nhân ở vào trường hợp thứ hai. 
 Kính thưa HĐXX! 
 Thưa vị đại diện VKS, thưa gia đình nạn nhân và các 
nạn nhân: việc bị cáo cùng lúc bắn chết 3 người và làm bị 
thương một người khác là một tội ác, một việc làm gây tác hại 
hết sức nghiêm trọng. Bị cáo phải chịu một mức án nghiêm 
khắc là đúng với hành vi của anh ta. Ở đây chỉ có điều mức 
án nghiêm khắc đến mức nào? Việc làm này trong chờ hoàn 
toàn vào sự công minh của pháp luật, của HĐXX. Chúng tôi 
chỉ có mong muốn HĐXX xem xét kỹ lại nguyên nhân gây án 
của bị cáo, trong đó có chứng bệnh tâm thần của anh ta. 
Trong vụ án này, tôi nghĩ không chỉ có gia đình nạn nhân và 
các nạn nhân đau đớn mà bản thân bị cáo cũng đau đớn 
 191 
không kém. Thật tội nghiệp cho bị cáo, chỉ trong buổi chiều 
oan nghiệt đó, trước khi xảy ra vụ xô xát khoảng vài phút 
đồng hồ bị cáo đâu có ngờ rằng chỉ ít phút nữa anh sẽ nhúng 
tay vào máu, sẽ giết người, chỉ một lát nữa thôi anh sẽ giã từ 
gia đình, từ giã người vợ mới cưới được một năm trời và đứa 
con mới đẻ cùng bạn bè thân yêu để bước vào trại giam, cách 
ly hoàn toàn với cuộc sống đẹp đẽ bên ngoài. Tôi nghĩ bị cáo 
hoàn toàn không biết trước việc làm của mình nếu không anh 
đã từ giã vợ con trước rồi mới gây án chứ đâu đến nỗi gây án 
xong, trước khi ra tự thú anh còn lộn trở về nhà mình với hy 
vọng được hôn lần cuối và nói lời từ biệt với đứa con thân 
yêu của anh vừa mới ra đời được 5 tháng. Rõ ràng, bị cáo đâu 
có chuẩn bị trước. 
 Ôi, nếu bà chủ quán NGUYÊN hôm ấy đừng có như thế 
thì đâu đến nỗi anh ta hôm nay phải đứng trước vành móng 
ngựa. Chính là vì có sự đột biến, sự không cố ý như thế nên 
tôi dám cam đoan chắc rằng hôm nay tòa án của luật pháp 
mới xử án anh nhưng tòa án lương tâm cũng đã xử anh ta 
hằng ngày, hằng giờ từ 7, 8 tháng nay rồi. Vì thế, lời cuối 
cùng tôi mong muốn trước khi kết thúc phần phát biểu bào 
chữa là một lần nữa tôi tha thiết đề nghị HĐXX hãy chấp 
nhận ý kiến khi chúng tôi cho rằng bị cáo trước và trong khi 
gây án là có mắc bệnh tâm thần ở dạng nhân - cách bệnh, thể 
hưng - phấn và trên cơ sở đó đề nghị HĐXX chấp nhận 4 tình 
tiết giảm nhẹ theo Điều 38 của Bộ luật Hình sự mà chúng tôi 
đã đưa ra. 
 Như vậy, nếu lời khẩn cầu của chúng tôi được chấp nhận 
thì chắc chắn bị cáo sẽ được hưởng mức án vừa phải trong 
 192 
cái khung hình phạt rất dài, rất rộng được quy định tại khoản 
1 Điều 101. Vì ở khoản 3 ở Điều 38, bộ luật cũng đã ghi rất 
rõ ràng: “Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tòa án có thể quyết 
định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy 
định”. Đó là về lý, còn về tình thì bây giờ dù bị cáo có phải 
chết tới 10 lần cũng không cứu được mạng sống cho những 
người vốn không thù oán gì với bị cáo mà bị chết một cách 
oan uổng, những người cho đến bây giờ vẫn không biết tại 
sao mình phải chết, nó cũng giống như bị cáo cách đây ít lâu 
còn nói với tôi: “Khi đến cơ quan Công an trình diện, nghe nói 
tôi mới biết rằng mình vừa bắn chết cô Quyên”. Tức là những 
cái chết không được chuẩn bị trước, những cái chết không 
phải do bị cáo cố tình cố ý tìm mọi cách gây ra. 
 Xin cám ơn HĐXX”. 
 V. Trong bài tập IV trên đây, tác giả đã đưa ra một trong 
hai lý do dẫn đến hành vi phạm tội “ giết người” của bị cáo, đó 
là: bị cáo có dấu hiệu bệnh tâm thần. 
 Anh (Chị) hãy: 
 1. Xây dựng lập luận (khoảng 100 chữ), trong đó lý do 
nêu trên là kết luận của lập luận. 
 2. Vẽ sơ đồ biểu diễn lập luận. 
 3. Các luận cứ có mối quan hệ độc lập hay ràng buộc 
lẫn nhau? 
 4. Anh (Chị) đánh giá thế nào về tính hiệu lực của mỗi 
luận cứ đối với kết luận? 
 193 
Chương 4. 
 KỸ NĂNG TRANH LUẬN 
4.1. Những vấn đề chung về tranh luận 
4.1.1. Khái niệm về tranh luận 
 Tranh luận (argument, debate), có khi còn được gọi là 
tranh biện (tranh luận – phản biện) là một hình thức giao tiếp 
ngôn ngữ đặc thù, thường xuất hiện trong những tình huống 
giao tiếp có tính đối kháng cao, trong đó các bên tranh luận 
dùng lý lẽ, lập luận để phân tích, luận giải nhằm xác định 
đúng/sai, phải/trái về một quan điểm, một tư tưởng, một 
vấn đề, một sự việc nào đó. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì 
tranh luận là “bàn cãi có phân tích lý lẽ để tìm ra lẽ phải” 1. 
Có tranh (giành/cạnh tranh, đấu tranh) mà không có luận 
(bàn bạc, biện luận, bình luận, đàm luận, thảo luận) thì chỉ 
là sự cãi cọ, đấu khẩu dựa trên cảm tính cá nhân, chủ quan, 
không phân tích đúng/sai, không sử dụng lý lẽ và lập luận để 
xác định chân lý/nghịch lý, phải/trái, hợp lý/bất hợp lý 
Ngược lại, nếu chỉ có luận mà không có tranh thì đó là thuyết 
trình, diễn giảng, thuyết giảng trong đó quan điểm của các 
bên là cùng hướng, không mâu thuẫn, không đối nghịch 
nghĩa là không đòi hỏi thẩm tra để xác định đúng/sai, hay/dở, 
tốt/xấu, phải/trái 
1 Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, 
tr.1686. 
 194 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ky_nang_lap_luan_va_tranh_luan.pdf