Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII

Hiện nay, tại chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang)

còn lưu giữ được tấm bia cổ duy nhất thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nước

ta có niên đại từ thời nhà Lý. Nội dung văn bia chép về dòng họ Hà và những

đóng góp của dòng họ này đối với vùng đất Vị Long nói riêng và đất nước nói

chung ở thế kỷ XI - XII. Trong đó phải kể đến công lao to lớn của nhân vật

 lịch sử Hà Di Khánh

Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII trang 1

Trang 1

Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII trang 2

Trang 2

Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII trang 3

Trang 3

Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII trang 4

Trang 4

Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII trang 5

Trang 5

Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 2380
Bạn đang xem tài liệu "Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII

Đóng góp của Thái phó Hà Di Khánh đối với lịch sử dân tộc thế kỷ XI - XII
 Hóa, Tuyên Quang là tấm bia đá được khắc duy 
nhân vật Hà Di Khánh được khắc trong văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc và nhất dưới thời nhà Lý. 
Hà Hưng Tông được ghi trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư là một. 3 Lý Thừa Ân là quan văn dưới thời nhà Lý, không rõ năm sinh, 
2 Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi là 1 trong số 18 tấm bia cổ có giá trị được năm mất. Đương thời, ông làm đến Triều thỉ nh đại phu, thượng 
khắc dưới thời nhà Lý hiện còn được lưu giữ. Bia có niên đại vào loại thư, viên ngoại lang, năm Nhâm Tý 1132, đời Lý Thần Tông, ông 
sớm và có giá trị về nhiều mặt (Lị ch sử, Văn hóa). Nếu tính riêng các có đi sứ nhà Tống. 
 H.T.T.Dung et al/ No.16_June 2020|p.31-35 
cho chúng ta những thông tin chân thực và quý báu [5, tr. 114]. Thân phụ Thái phó kết duyên với con gái thứ 
về tiểu sử và gia thế của Thái phó Hà Di Khánh. 6 của quan Thái thú ở Phú Nghĩa và “từ khi sinh người 
 Bia cổ Bảo Ninh Sùng Phúc ghi chép khá rõ về quê con trai đầu lòng đến người con trai thứ tư, cha mẹ Thái 
hương của Thái phó Hà Di Khánh: “Thái phó Hà Hưng phó đều nuôi dậy ân cần... Con trai thì rùi mài kinh sử, 
Tông, Thuỷ tổ người thôn Ca Nông, hương Thạch Bách, con gái thì kim chỉ thêu thùa” [5, tr114]. 
 4
huyện Hà, thuộc Đông Đô, Châu Ung . Cao tổ là Hà Đắc Về năm sinh của Thái phó Hà Di Khánh, chính sử 
Trọng, xa nghe giáo hoá của vương triều, dời gót xin làm 
 không thấy chép, nhưng văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc cho 
thần thứ, từ đó giữ gìn an toàn châu Vị Long vậy. Dân đã 
 biết “ Vu Anh Vũ Chiêu Thắng, Đinh Tỵ, thời duy cửu tuế, 
ấm no; người đời tôn tưởng. Cho tới đời thứ 8, kể cả tổ 
 tử nê phong chiếu” - Dịch “Năm Đinh Tỵ, niên hiệu 
tiên xưa có hai đời làm Thái bảo và Thái phó, nghiệp lớn 
 Anh Vũ Chiêu Thắng (1077) lúc bấy giờ, ông (tức Thái 
càng thịnh; công cả càng cao. Được coi giữ 49 động, 15 
 phó Hà Di Khánh - TG) mới chỉ có 9 tuổi” [5, Tr115]. 
huyện, dân khuân phép chung. Trải qua 5 đời thì đến đời 
 Ngày xưa, tính tuổi, người ta thường hay tính cả tuổi mụ2. 
bấy giờ. Ông của Thái phó (Hà Di Khánh) giữ chức Thái 
 Như vậy, nếu tính theo tuổi Dương lịch (tuổi Tây), vào 
bảo, lấy công chúa thứ 3 của của Thái Tổ Hoàng đế (Tức 
 năm 1077, Hà Di Khánh mới chỉ có 8 tuổi, từ đó suy ra, 
Lý Thái Tổ - 1009-1028)” [5, Tr114]. 
 ông sinh vào năm Kỷ Dậu (1069). 
 Như vậy, quê gốc của Thái phó Hà Di Khánh là châu 
 Năm 1082, vua Lý gả công chúa Khâm Thánh cho Hà 
Ung, thuộc Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày 
 Di Khánh và phong cho ông chức Tả Đại liêu ban3. 
nay. Theo văn bia thì từ vị cao tổ Hà Đắc Trọng đến thời 
Hà Di Khánh (cụ thể dựng bia năm 1107) là 8 đời. Như Năm Ất Sửu (1085), thân phụ Hà Di Khánh qua đời, 
vậy, Họ Hà định cư tại Châu Vị Long đến đời Hà Di năm Bính Dần (1086), ông được thế tập cha giữ chức tri 
 4
Khánh là khoảng 200 năm. Từ đó có thể thấy được rằng, châu Vị Long. Giữ Tiết độ sứ , Kim tử Quang lộc đại 
 5 6
thủy tổ của họ Hà di cư vào châu Vị Long vào đầu thế kỷ phu, Kiểm hiệu Thái phó , Châu mục châu Vị Long - 
thứ X, tức khoảng năm 905 đến năm 920. Đó là thời kỳ Tức người cai quản toàn bộ công việc quân, dân, chính 
loạn lạc ở Trung Quốc5. Vùng châu Ung, quê hương của của châu Vị Long và phòng giữ vững chắc vùng biên giới 
họ Hà cũng không phải là ngoại lệ. “chắc hẳn là Hà Đắc phía Bắc của Tổ quốc. 
Trọng đã di cư sang châu Vị Long vào khoảng thời gian Theo văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc, thì tri châu Vị 
này để tránh họa giặc giã tại cố hương” [6, Tr16]. Long là Hà Di Khánh coi giữ 49 động, 15 huyện, dân 
 Họ Hà từ châu Ung (Trung Quốc) di cư sang Vị Long. chúng đều ấm no, thấm nhuần giáo lý tốt đẹp, hướng theo 
Đến đời ông của Thái phó Hà Di Khánh được giữ chức khuôn phép chung. Chúng ta đều biết Động là đơn vị hành 
Thái bảo6, lấy công chúa thứ ba của Thái Tổ Hoàng đế chính ở vùng miền núi, thượng du vào thời bấy giờ, tương 
Lý Công Uẩn làm phu nhân. Nhân việc đó được vua Lý đương với đơn vị Hương ở đồng bằng, còn đơn vị hành 
Thái Tổ giao giữ chức Hữu đại liêu ban1. Ông Bà nội của chính Huyện ở vùng thượng du có lẽ nhỏ hơn đơn vị 
Thái phó sinh được bẩy người con, bốn con trai và ba con Huyện ở vùng đồng bằng, miền xuôi và nằm trong đơn vị 
gái. hành chính Châu (trực thuộc Châu) thời bấy giờ. 
 Thân phụ của Thái phó là người chính trực, đại nghĩa, 
lấy đức trị dân. Theo văn bia viết “...Riêng thân phụ Thái 
phó là người thi hành nhân chính, làng xóm yên vui...” 
4 Châu Ung: Nay thuộc tỉ nh Quảng Tây, trung Quốc. 4 Tiết độ sứ: Là chức quan cao cấp đứng đầu việc quân và 
5 Thời kỳ Ngũ đại Thập quốc là thời kỳ hết sức loạn lạc ở Trung Quốc, 
giặc dã nổi lên khắp nơi. chính quyền của địa phương. 
6 Thái bảo: Quan Nhất phẩm trong hàng ngũ vó 
quan của triều đình nhà Lý. 
1 Hữu đại liêu ban: Theo quan chế triều Lý, đây là một tước phong cho 
các công thần của triều đình. Theo văn bia, chức Tiết độ sứ mà Thái phó Hà Di Khánh 
2 Tuổi mụ: Theo cách tính cổ truyền, tuổi có ngay từ lúc mới sinh ra, nắm giữ được nhà Lý giao cho toàn quyền xử trí các công 
tính năm sinh đã là 1 tuổi. 
3 Tả Đại liêu ban: Là một chức phong. Theo Lê Quý Đôn trong Kiến việc địa phương do mình quản giữ. 
văn tiểu lục những người được phong tước trên đều là những công thần. 5 Kiểm hiệu Thái phó: Là một chức quan được phong trong thời gian 
 chờ đợi được chính thức thụ phong. 
 6 Châu mục: cũng tức là Tri châu. 
 H.T.T.Dung et al/ No.16_June 2020|p.31-35 
Theo PSG. TS Nguyễn Minh Tường7 “Châu Vị Long gồm số còn lại vội vã bỏ đồn trại tháo chạy về phía Ung Châu. 
49 động và 15 huyện như văn bia ghi chép chắc hẳn phải Âm mưu tiến đánh Đại Việt của nhà Tống bị phá sản. 
rộng hơn huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang ngày nay Trong bia Bảo Ninh Sùng Phúc cũng viết rõ “Năm Ất 
khá nhiều” PGS cũng cho rằng: “Phạm vi châu Vị Long Mão, niên hiệu Thái Bình (1075), Thân phụ Thái phó chỉnh 
do Tri châu Hà Di Khánh Quản lý có thể bao gồm 3 huyện đốn vương sự, đánh sang ải Bắc. Vây thành Ung cho bỏ 
Chiêm Hóa, Na Hàng, Yên Sơn, một phần huyện Hàm Yên giận; bắt tướng võ, dâng tù binh. Do đó thân phụ Thái phó 
và Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang ngày nay. Chỉ đứng đầu 
 được vua ban chức Hữu đại liêu ban đoàn luyện sứ” [6, 
một vùng đất rộng như vậy thì Thái phó Hà Di Khánh mới 
 tr73-74]. 
được vua Lý Nhân Tông coi trọng và gả công chúa Khâm 
 Với chiến công ấy, phụ thân ông được giữ chức Hữu 
Thánh, em gái vua, phong làm Phò Mã”[6, tr13]. 
 đại liêu ban, Đoàn luyện sứ. Có thể thấy, trong cuộc kháng 
 2.2. Đóng góp của Hà Di Khánh đối với lịch sử dân 
 chiến chống Tống, bên cạnh sự đóng góp của họ Thân, họ 
tộc thế kỷ XI - XII 
 Vi ở Lạng Châu thì họ Hà ở Vị Long - Chiêm Hóa Tuyên 
 Công lao đầu tiên và lớn nhất của Thái phó Hà Di 
 Quang đã tích cực đóng góp công sức cho cuộc chiến. 
Khánh đối với lịch sử dân tộc và với vùng đất Vị Long 
 Công lao thứ hai của Hà Di Khánh và cũng là cơ sở để 
(Chiêm Hóa, Tuyên Quang) là giữ vững và góp phần ổn 
 tạo điều kiện cho ông góp phần giữ vững vùng biên ải phía 
định vùng biên cương phía Bắc của Tổ quốc. 
 Bắc của Tổ quốc đó là ổn định về tình hình chính trị và 
 Vào thời Lý, vùng biên cương phía Bắc nước ta là một 
 phát triển kinh tế, nông nghiệp trong phạm vi châu Vị Long 
vùng đất rộng, dài, suốt dải biên giới dài hơn 1000 km8 ấy chỉ 
 lúc bấy giờ. 
có đoạn Cao Bằng sang phía Đông là khá rõ ràng, còn về 
phía Tây thì chưa thật ổn định. Do tư liệu chính thống đề cập đến quá ít ỏi, nhất là 
 những tư liệu ghi chép về lĩnh vực kinh tế của các vùng 
 Nhận thức được tầm quan trọng của vùng đất biên 
viễn, khối đoàn kết dân tộc, trong lịch sử, các triều đại biên viễn nói chung và vùng châu Vị Long nói riêng dưới 
phong kiến Việt Nam luôn có những chính sách dân tộc thời cai quản của Hà Di Khánh. Tuy vậy, thông qua những 
đối với các vùng, các dân tộc khác nhau, nhằm duy trì và tư liệu được ghi lại trong văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc, cho 
khẳng định quyền lực của nhà Vua đối với các dân tộc phép chúng ta phần nào phác họa được đôi nét về đời sống, 
thiểu số. Hướng tới mục đích củng cố và tăng cường nền kinh tế của châu Vị Long dưới thời kỳ cai quản của Thái 
thống nhất quốc gia. phó Hà Di Khánh trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 
 Năm Ất Mão đời Thái Ninh (1075), Trong cuộc kháng XI, đầu thế kỷ XII. 
chiến chống quân xâm lược Tống của Lý Thường Kiệt, Mở đầu văn bia đã giới thiệu về vùng châu Vị Long 
phụ thân của Hà Di Khánh đã cầm quân sang đánh thành “tri Vị Long châu, phụ ký lang, đô tri tả vũ vệ Đại tướng 
Ung Châu và lập công lớn, bắt được tướng giặc và tù binh. quân, Kim tử quang lộc đại phu, Kiểm hiệu Thái phó đồng 
Trong chiến dịch Tiên phát chế nhân, nhà Lý đã huy động Trung thư môn hạ bình chương sự, kiêm quản nội khuyến 
quân đội các dân tộc thiểu số sang đánh bằng đường bộ. nông sự, Thượng trụ quốc, thực ấp tam thiên cửu bách hộ, 
Trong khi đại quân của triều đình do Lý Thường Kiệt chỉ thực thực phong cửu bách hộ” [5, Tr. 109]. Dịch rằng “Tri 
huy đi thuyền, đổ bộ lên Liêm Châu, tiến đánh mặt sau 
Ung Châu. Ngày 27-10-1075 cuộc tiến công bắt đầu. Đạo 
quân của châu Vị Long cùng với quân đội của các vùng 
khác do các thủ lĩnh các dân tộc thiểu số chỉ huy chia thành 
nhiều mũi, phối hợp với quân đội triều đình bất ngờ tiến 
công vào toàn bộ đồn, trại của quân Tống dọc biên giới. 
Trước sự tấn công bất ngờ, táo bạo của quân ta, quân Tống 
không sao chống đỡ nổi, hàng ngũ rối loạn, số thì bị giết, 
7 PGS. TS Nguyễn Minh Tường hiện công tác tại Viện Sử học Việt đường biên giới dưới nước là 383.914 km (Theo Vũ Dương Ninh (2010), 
Nam Đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Công 
8 Đường biên giới hiện nay giữa Việt Nam và Trung Quốc có tổng chiều an Nhân dân,H). 
dài là 1.449.566 km, trong đó đường biên giới trên bộ là 1.065.652 km, 
 H.T.T.Dung et al/ No.16_June 2020|p.31-35 
châu Vị Long, Phò ký lang9 Đô tri tả vũ vệ Đại tướng quân, sự. Thượng trụ quốc, thực ấp 3.900 hộ, hưởng thực phong 
Kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó, Đồng trung 900 hộ” [5, Tr113]. 
thư môn hạ Bình chương sự, kiêm quản nội khuyến nông 
 Như vậy, qua văn bia cho chúng ta biết, ngoài việc 3. Kết luận 
được triều đình nhà Lý tin tưởng đặt nhiều chức quan, Hà Thái phó Hà Di Khánh, có thể nói là một nhà chính trị 
Di Khánh còn được trao thêm chức Kiêm quản nội khuyến có tâm, ông đã có cái nhìn rộng và chiến lược khi dựa vào 
nông sự đó là chức quan trông coi công việc nông nghiệp các nhà sư, mở mang Phật học đến dân chúng trong vùng 
tại Vị Long. Trong thời kỳ cai quản của mình, ông đã “cho và dạy chữ cho dân. Ông đã góp phần ổn định về tình hình 
 10
dân cầy cấy theo phép Tỉnh điền , thóc lúa ùn ùn như núi, chính trị và phát triển kinh tế nông nghiệp trong phạm vi 
khách khứa ba nghìn đông đúc, cửa nhà nhộn nhịp phố Châu Vị Long lúc bấy giờ. Vì thế, trong thời kỳ cai quản 
phường” [5,Tr115]. Trong văn bia, tác giả Lý Thừa Ân của Thái phó Hà Di Khánh, đời sồng nhân dân bình yên và 
cũng ca ngợi Thái phó Hà Di Khánh thu thuế của dân rất no đủ. 
nhẹ nên đã đóng góp cho việc kích thích kinh tế nông 
 Như vậy, có thể thấy rằng, Thái phó Hà Di Khánh 
nghiệp phát triển. Đời sống nhân dân ngày càng thịnh 
 có một sự nghiệp lớn lao, có công lao lớn đối với vùng 
vượng. Cũng vì vậy mà Thái phó rất được lòng dân tại 
 châu Vị Long nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung. 
châu Vị Long. 
 Ông xứng đáng được tôn vinh là Danh nhân lịch sử của 
 Công lao thứ 3 của Thái phó Hà Di Khánh chính là góp dân tộc Việt Nam nói chung và Tuyên Quang nói riêng. 
phần truyền bá văn hóa Phật giáo vào vùng Vị Long nói 
riêng và vùng biên viễn phía Bắc của Tổ quốc nói chung. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 Thời Lý, Phật giáo phát triển mạnh Triều Lý, các vị vua 
 1. Đào Duy Anh (1983), Đất nước Việt Nam qua các 
tôn sùng đạo Phật. Nhiều lần vua Lý cho người sang nhà 
 đời, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
Tống xin kinh Phật. Số lượng chùa tháp được xây dựng 
tương đối lớn cũng đủ để thấy đạo Phật đã thấm sâu và rộng 2. Bảo tàng Tuyên Quang, Lý lịch di tích chùa Bảo 
thế nào trong dân chúng. Ninh Sùng Phúc thôn Làng Tạc, xã Yên Nguyên, Chiêm 
 Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Lần thứ nhất ngày 22 - 2- 1997 
 Sự tôn sùng đạo Phật của các vua nhà Lý cũng đã ảnh 
 (Lí lịch di tích I) và lần 2 ngày 29 - 11- 2005 (Lí lịch di 
hưởng và có sức lan tỏa rất lớn đến tầng lớp quan lại và 
 tích II). 
dân chúng. Phần lớn các chùa đều do vua, quan đứng lên 
xây dựng. Trong bối cảnh đó, Thái phó Hà Di Khánh cho 3. Nguyễn Thị Phương Chi (2012), “Vai trò của 
xây dựng ngôi chùa Bảo Ninh Sùng Phúc ngay tại châu Vị những thủ lĩnh họ Hà đối với vùng đất Chiêm Hóa, Tuyên 
Long. Ông xây dựng chùa vào năm 1107. “Hẳn là vị tri Quang”, Hội thảo Hội thảo khoa học về các danh nhân họ 
châu Thái phó Hà Di Khánh thấy cần phải xây dựng chùa Hà châu Vị Long, Tuyên Quang và giá trị tấm bia Bảo 
tháp để nhờ các nhà sư truyền dậy đạo Phật cho người Ninh Sùng Phúc, tr. 61-70. 
dân trong bản châu mà ông cai quản” [6, tr21], vì ông biết 4. Ngô Sĩ Liêm (1981), Đại Việt sử ký toàn thư (tập 
rằng “Nước xây dựng trên đạo thì vững như cột đá; Dân 1), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
hấp thu giáo hóa thì xuôi như dòng sông” [6, tr115-116]. 5. Thích Đức Thiện, Đinh Khắc Thuân (2011), Văn 
 Vào thế kỷ XI, XII, triều đại nhà Lý chỉ quan tâm đến bia chùa Phật thời Lý, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà 
giáo dục ở khu vực kinh thành. Giáo dục ở các địa phương Nội. 
không được Nhà nước quan tâm. Vì vậy, các ngôi chùa 6. Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2012), Hội 
của các làng ở nông thôn đồng bằng miền xuôi và những thảo khoa học về các danh nhân họ Hà châu Vị Long, 
ngôi chùa ở vùng miền núi đóng vai trò như một trung tâm Tuyên Quang và giá trị tấm bia Bảo Ninh Sùng Phúc. Kỷ 
văn hóa, giáo dục. Nhiều nhà sư mở lớp dậy chữ cho các yếu Hội thảo khoa học. 
tăng nhi và dân chúng ngay tại các chùa. 
9 Phò ký lang: Tức là chức Phò mã sau này, dùng để pong cho con rể còn khu ngoài để cho 8 nhà cày cấy, 8 nhà này phải chung sức cầy cấy 
hoặc em rể vua. khu ruộng ở giữa. Còn về đánh phép thuế thì cứ 100 mẫu thì phải nộp 
10 Tỉ nh điền: phép cầy ruộng và phép đánh thuế của nhà Chu (Trung thuế 10 mẫu (thuế thập nhất). 
Quốc). Theo Đinh Khắc Thuân trong Văn bia chùa Phật thời Lý: về cày 
ruộng thì đem 900 mẫu ruộng chia thành 9 khu, khu giữa là ruộng công, 
 Contribution of Thai Pho Ha Di Khanh 
 for national history from the 11th to 12th century 
Hoang Thi Thu Dung, 
Tran Minh Tu 
Article info Abstract 
 At persent, Bao Ninh Sung Phuc pagoda (Chiem Hoa district, Tuyen Quang province) 
Recieved: 
 is preserving the only ancient stele which belongs to to the northern mountainous 
26/2/2020 
Accepted: provinces with era from the Ly dynasty. The stele contents are about Ha clan and 
10/6/2020 their contributions for Vi Long in particular and the country in general from the 11th 
 to 12th century, espeacially the great merit of historical hero Ha Di Khanh. 
Keywords: 
Contribution, Ha Di 
Khanh, national history 

File đính kèm:

  • pdfdong_gop_cua_thai_pho_ha_di_khanh_doi_voi_lich_su_dan_toc_th.pdf